Bài giảng Ngữ văn 9 - Bài: Nói với con
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngữ văn 9 - Bài: Nói với con", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
bai_giang_ngu_van_9_bai_noi_voi_con.pptx
Nội dung text: Bài giảng Ngữ văn 9 - Bài: Nói với con
- Nói với con (Y Phương)
- I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả - Y Phương ( 1948 -2022 ) tên thật là Hứa Vĩnh Sước. - Quê quán: Trùng Khánh - Cao Bằng, ông là người dân tộc Tày. - Ông nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại Sở văn hóa - thông tin tỉnh Cao Bằng. - Năm 1993 là chủ tịch hội văn nghệ Cao Bằng. - Năm 2007 ông được nhận giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật. - Phong cách thơ: Thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ, trong sang; cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi, mang đậm bản sắc vùng cao.
- Tác phẩm chính Kể tên Người núi Hoa (1982); Tiếng hát tháng những tác giêng (1986); Lửa hồng một góc (1987); phẩm chính Lời chúc (1991); Đàn then (1996); Thơ Y của ông? Phương (2002).
- Người đồng mình thương lắm con ơi Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Chân phải bước tới cha Không lo cực nhọc Chân trái bước tới mẹ Người đồng mình thô sơ da thịt Một bước chạm tiếng nói Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Hai bước tới tiếng cười Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Người đồng mình yêu lắm con ơi Còn quê hương thì làm phong tục Đan lờ cài nan hoa Con ơi tuy thô sơ da thịt Vách nhà ken câu hát Lên đường Rừng cho hoa Không bao giờ nhỏ bé được Con đường cho những tấm lòng Nghe con. Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời. (Y Phương – Thơ Việt Nam 1945-1985)
- 2. Tác phẩm Xuất xứ: Bài thơ được sáng tác năm 1980, khi đất nước mới hòa bình thống nhất nhưng gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Từ hiện thực ấy, nhà thơ sáng tác bài thơ như lời tâm sự, động viên chính mình đồng thời nhắc nhở con cái sau này. Đọc, tìm hiểu chú thích: Thể loại: Thơ tự do PTBĐ: Biểu cảm P1: Đoạn 1: Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người Bố cục: 2 phần P2: Còn lại: Những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước của cha
- Vợ chồng chúng tôi sinh cô con gái đầu lòng vào giữa năm 1979. Bài thơ “Nói với con” tôi viết năm 1980. Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn. Thời kỳ cả nước mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ lâu dài và gian khổ. Giống như một người mới ốm dậy, xã hội khi ấy bắt đầu xuất hiện người tốt, kẻ xấu để tranh giành sự sống. Bài thơ với nhan đề là “Nói với con”, đó là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lý do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa Bài thơ 28 câu này được xem như là viết riêng cho đứa con đầu lòng. Ở phạm vi hẹp, bài thơ chủ yếu đề cập đến văn hóa dân tộc, nhằm tôn vinh nét đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc Tày. ( Nhà thơ Y Phương: “Nói với con” cũng chính là nói với lòng mình! )
- Người đồng mình: người vùng mình, người miền mình. Đây có thể hiểu là những người cùng sống trên một miền đất, cùng quê hương, cùng một dân tộc.
- Lờ: một loại dụng cụ dùng để đặt bắt cá, được đan bằng những nan tre vuốt tròn Thung (thung lũng): dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi núi.
- II. TÌM HIỂU VĂN BẢN: Chân phải bước tới cha 1. Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói a. Gia đình: Hai bước tới tiếng cười + Chân phải Chân trái từ ngữ tạo hình, liệt kê + Một bước Hai bước => gợi liên tưởng đến những bước chân chập chững đầu tiên của một em bé trong sự vui mừng đón chờ của cha mẹ. + tiếng nói tiếng cười => phép liệt kê => Tái hiện được hình ảnh của một em bé đang ở lứa tuổi bi bô tập nói đồng thời gợi đến khung cảnh của một gia đình đầm ấm, hòa thuận luôn tràn đầy niềm vui, hạnh phúc, tràn đầy tiếng nói, tiếng cười.
- + tới cha tới mẹ => phép liệt kê => Tái hiện hình ảnh em bé đang chập chững tập đi, lúc thì sà vào lòng mẹ, khi lại níu lấy tay cha, gợi lên ánh mắt như đang dõi theo và vòng tay dang rộng đón đợi của cha mẹ. + Nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng, điệp cấu trúc câu đã tạo nên một âm điệu, không khí vui tươi và gợi đến một mái ấm gia đình hạnh phúc. Þ Lời thơ giản dị, êm ái như tiếng ru con, như một lời tâm tình thủ thỉ, cha đã nói với con: gia đình chính là cội nguồn sinh thành, nuôi dưỡng con. Þ Vì thế, trên hành trình vạn dặm của cuộc đời, con không được phép quên.
- b. Tình cảm quê hương: - Cách gọi độc đáo: Người Người vùng mình, người miền mình; người đồng cùng sống trên một miền đất, cùng quê hương, mình cùng một dân tộc. - Người cha đã có cách lí giải rất cụ thể về sự đáng yêu của con người quê hương: Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát
- Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát
- - Hệ thống hình ảnh giàu sức gợi: + “ Đan lờ cài nan hoa”: tả thực công cụ lđ còn thô sơ được “người đồng mình” trang trí trở nên đẹp đẽ; gợi đôi bàn tay cần cù, khéo léo, tài hoa và giàu sáng tạo của “người đồng mình”, đã khiến cho những nan nứa, nan tre đơn sơ, thô mộc trở thành “nan hoa” + “ Vách nhà ken câu hát”: tả thực lối sinh hoạt văn hóa cộng đồng, Vách nhà không chỉ được ken bằng tre bằng nứa mà còn đầy ắp những câu hát; gợi một thế giới tâm hồn tinh tế và tràn đầy lạc quan của người vùng cao. + Các động từ “cài, ken”: đi kèm danh từ “nan hoa, câu hát” vừa miêu tả được động tác khéo léo trong lao động vừa gợi sự gắn bó trong cuộc sống tràn ngập niềm vui.của những “người đồng mình”.
- Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng - H/a tả thực + nhân hóa: gợi vẻ đẹp Nhân hóa => gợi liên tưởng đến những con của những rừng hoa mà thiên nhiên, đường trở về làng, về bản; gợi đến tấm lòng quê hương ban tặng vừa gợi sự giàu có t/c của “người đồng mình” với GĐ, QH, xứ hào phóng của thiên nhiên, quê hương. sở; con đường kết nối yêu thương nhà - nhà. Điệp từ “cho” => tấm lòng rộng mở, hào phóng của thiên nhiên, của quê hương sẵn sàng ban tặng tất cả những gì đẹp nhất, tuyệt vời nhất.
- => Nếu như gia đình là cội nguồn sinh thành, dưỡng dục con thì quê hương bằng truyền thống văn hóa, lao động đã nuôi dưỡng tâm hồn, lẽ sống và chở che cho con thêm khôn lớn, trưởng thành. Cha nói với con về kỉ niệm ngày cưới Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời. - Nhớ về ngày cưới - Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời => nhớ về kỉ niệm cho sự khởi đầu của một gia đình. Nó là minh chứng cho tình yêu cha mẹ và con chính là kết tinh của tình yêu ấy. - hướng tới gia đình - niềm trân trọng thiêng liêng
- Tình cảm cha mẹ dành cho con: nâng đón, chở che, chăm Nói với con về chút cội nguồn sinh dưỡng Tình cảm quê hương : con trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình của quê hương. => Đoạn thơ là lời dặn dò, nhắn nhủ tâm tình của người cha về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con: Gia đình, quê hương chính là nền tảng để tiếp bước cho con khôn lớn, trưởng thành. Bởi vậy, con phải luôn sống bằng tất cả tình yêu và niềm tự hào.
- 2. Những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước của người cha a. Những đức tính cao đẹp của “người đồng mình” “Người đồng mình thương lắm con ơi!” - Động từ “thương” đi liền với từ chỉ mức độ “lắm” -> bày tỏ sự đồng cảm với những nỗi vất vả, khó khăn của con người quê hương. Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn + cao, xa => tính từ => gợi liên tưởng đến những dãy núi cao, trùng điệp là nơi cư trú của đồng bào vùng cao; khó khăn chồng chất khó khăn để thử thách ý chí con người. - Hệ thống h/a mang tư duy của người miền núi, khi tác giả lấy chiều cao của trời, của núi để đo nỗi buồn nỗi vất vả; lấy kh/cách xa của đất, của những con đường đèo để đo ý chí con người. => Câu thơ đượm chút ngậm ngùi, xót xa để diễn tả thực tại đ/s còn nhiều những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào vùng cao. Đồng thời, cũng đầy tự hào trước ý chí, nghị lực vươn lên của họ.
- Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con - Nghệ thuật tương phản: + “H/a thô sơ da thịt” => tả thực vóc dáng, hình hài nhỏ bé của “người đồng mình” + Cụm từ “chẳng mấy ai nhỏ bé” => gợi ý chí, nghị lực phi thường, vượt lên hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của họ => đã làm tôn lên vóc dáng (tầm vóc) của “người đồng mình”: họ có thể còn “thô sơ da thịt” nhưng họ không hề nhỏ bé, yếu đuối.
- Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục - H/a “tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang ý/n tả thực, vừa mang ý/n ẩn dụ sâu sắc: + Tả thực quá trình dựng nhà, dựng bản của của người vùng cao, được kê trên những tảng đá lớn để tránh mối mọt, ẩm thấp. + Ẩn dụ cho tinh thần tự lực cánh sinh, họ đã xây dưng và nâng tầm quê hương. => Trong quá trình dựng làng, dựng bản, dựng quê hương ấy, chính họ đã làm nên phong tục, bản sắc riêng cho cộng đồng. ÞCâu thơ tràn đầy niềm tự hào về những phẩm chất đáng quý của người đồng mình. Þ Từ đó người cha nhắn nhủ, răn dạy con phải biết kế thừa, phát huy những vẻ đẹp của con người quê hương.
- b. Mong ước của cha Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc. => Điệp từ “sống” => đã tô đậm được mong ước mãnh liệt của cha dành cho con. => Hình ảnh ẩn dụ và phép liệt kê “đá ghập ghềnh” và “thung nghèo đói”: + Gợi không gian sống hiểm trở, khó làm ăn, canh tác + Gợi đến cuộc sống nhiều vất vả, gian khó và đói nghèo => người cha mong muốn con: hãy biết yêu thương, gắn bó, trân trọng quê hương mình.

