Bài giảng Ngữ văn 9 - Bài: Thơ song thất lục bát
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Ngữ văn 9 - Bài: Thơ song thất lục bát", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
bai_giang_ngu_van_9_bai_tho_song_that_luc_bat.pptx
Nội dung text: Bài giảng Ngữ văn 9 - Bài: Thơ song thất lục bát
- THƠ SONG THẤT LỤC BÁT
- Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai . (Chinh phụ ngâm)
- Thơ song thất lục bát gồm có 2 câu 7 chữ và 1 câu 6 chữ, 1 câu 8 chữ. Chữ cuối câu bảy trên vần với chữ thứ 5 câu bảy dưới, chữ cuối câu bảy dưới vần với chữ cuối câu lục, tiếng cuối câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát. Và chữ cuối câu bát vần với chữ thứ 5 (đôi khi chữ thứ 3) của câu thất tiếp theo.
- Câu số Vần 1 - - t - b - T 2 - - b - T - B 3 - b - t - B 4 - b - t - B - B 5 - - t/b - B - T 6 - - b - T - B 7 - b - t - B 8 - b - t - B - B Chữ thứ--1----2----3----4----5----6----7----8--
- Thuở trời đất nổi cơn gió bụi Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên Xanh kia thăm thẳm từng trên Nào ai gây dựng cho nên nỗi này Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt Khói Cam Tuyền mờ mịt khúc mây Chín tầng gươm báu trao tay Nửa đêm truyền hịch đợi ngày xuất chinh
- Là một thể thơ đặc biệt của người Việt, song thất lục bát cùng với lục bát rất được các tác giả ưa chuộng trong suốt thời kì văn học trung đại Việt Nam. Thể thơ này phát triển mạnh vào thế kỉ 18 cho đến tận đầu thế kỉ 20. Nhiều tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam đã sử dụng thể thơ này như bản dịch Chinh phụ ngâm (Đoàn Thị Điểm), Ai tư vãn (Lê Ngọc Hân), Văn tế thập loại chúng sinh (Nguyễn Du), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), bản dịch Tì bà hành (Phan Huy Thực), Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến), Hải Ngoại huyết thư (Phan Bội Châu)v.v...
- Chữ thứ năm của câu 2 bắt vần với chữ thứ bảy của câu 1 (vần trắc). Chữ thứ sáu của câu 3 bắt vẫn với chữ thứ bảy của câu 2 (vần bằng). Chữ thứ sáu của câu 4 bắt vần với chữ thứ 6 của câu 3 (vần bằng). Câu 1 và câu có 2 vần lưng bắt với nhau, câu 2 và câu 3 có vần chân bắt với nhau, câu 3 và câu 4 có vần lưng bắt với nhau. Từ đặc điểm này, có thể khẳng định : song thất lục bát có nguồn gốc dân tộc, không phải là sự kết hợp giữa thể lục bát của ta và thể Đường luật của Trung Quốc (những câu thơ Đường luật cũng bảy chữ nhưng chỉ có vần chân, không có vần lưng),

