Chuyên đề Rèn kĩ năng nói tiếng anh trong các tiết học ngoại ngữ cho học sinh lớp 6 tại trường THCS Hưng Thành

doc 8 trang Thành Trung 10/06/2025 80
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Rèn kĩ năng nói tiếng anh trong các tiết học ngoại ngữ cho học sinh lớp 6 tại trường THCS Hưng Thành", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docchuyen_de_ren_ki_nang_noi_tieng_anh_trong_cac_tiet_hoc_ngoai.doc

Nội dung text: Chuyên đề Rèn kĩ năng nói tiếng anh trong các tiết học ngoại ngữ cho học sinh lớp 6 tại trường THCS Hưng Thành

  1. CHUYÊN ĐỀ II KẾ HOẠCH THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ “ RÈN KĨ NĂNG NÓI TIẾNG ANH TRONG CÁC TIẾT HỌC NGOẠI NGỮ CHO HỌC SINH LỚP 6 TẠI TRƯỜNG THCS HƯNG THÀNH” MÔN: TIẾNG ANH I. Lý do xây dựng chuyên đề 1. Thực trạng: Qua thực tế giảng dạy của bản thân tại trường cũng như dự giờ các đồng nghiệp cùng chuyên môn, tôi nhận thấy kĩ năng nói của học sinh còn nhiều hạn chế. Vì vậy trong các buổi sinh hoạt chuyên môn tôi đã mạnh dạn đưa ra những hạn chế để cùng đồng nghiệp trao đổi, rút kinh nghiệm. Chính vì lí do đó mà tổ Xã hội trường THCS Hưng Thành chọn chuyên đề “Rèn kĩ năng nói Tiếng Anh trong các tiết học Ngoại Ngữ cho học sinh lớp 6 tại trường THCS Hưng Thành” để thảo luận và nghiên cứu 2. Nguyên nhân: Dưới sự hướng dẫn của GV, mỗi giờ dạy thành công hay không đều không thể thiếu sự chuẩn bị, tổ chức, sắp xếp kỹ càng. GV cũng có nhiều thuận lợi trong việc tổ chức học tập cho học sinh nhưng cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình giảng dạy trực tiếp ở lớp học như: - Học sinh không đủ vốn kiến thức nguồn (input ) để thực hành. - Hoạt động trong sách giáo khoa chưa phù hợp với khả năng học sinh. * Giáo viên: - Đã đổi mới phương pháp dạy học nhưng hiệu quả chưa cao - Chưa sử dụng tiếng Anh một cách cân đối, hợp lý trong tiết dạy nên không tao cho học sinh thói quen nghe – nói, ứng xử bằng tiếng Anh. - Việc hướng dẫn học sinh sử dụng Tiếng Anh vào giao tiếp hàng ngày còn hạn chế. - Giáo viên chưa tìm được cách tối ưu để thiết kế từng bài dạy..v.v.. * Học sinh: - Chưa có kĩ năng nói, chưa biết vận dụng từ mới và ngữ pháp để thực hành nói. - Hầu hết học sinh ở vùng nông thôn, phát âm tiếng địa phương nên các từ phát âm chưa chuẩn, chưa có trọng âm, các câu nói không có nhịp điệu, ngữ điệu thường có xu hướng phát âm tiếng Anh theo cách Việt hoá. - Việc sử dụng tiếng Anh thành thạo để giao tiếp thì còn rất khiêm tốn; còn rất e ngại sử dụng tiếng Anh trong các giao tiếp, đặc biệt là học sinh THCS (Dù thực tế học sinh có thể nắm vững các quy tắc ngữ pháp). Có nhiều lý do khách quan và chủ quan khác nhau nhưng đây là vấn đề trăn trở của rất nhiều thầy cô giáo dạy tiếng Anh ở bậc học này 3. Ý tưởng: Để tăng cường cơ hội luyện nói bằng Tiếng Anh cho HS, tôi tự đặt ra câu hỏi: - Tại sao HS thích nói Tiếng Việt hơn Tiếng Anh? - Nói Tiếng Anh với ai? Để làm gì? Theo tôi, ngoài các yếu tố về năng lực ngôn ngữ, môi trường sử dụng ngôn từ là một nhân tố vô cùng quan trọng. Chúng ta không thể giao tiếp mà không có đối
  2. tác hoặc không mang mục đích gì. Điều này không thể xảy ra đối với một hoạt động giao tiếp thông thường. Đối với môn Tiếng Anh, cơ hội giao tiếp cần phải được mở rộng, thoát ra khỏi phạm vi tiết dạy nói cơ bản mà phải áp dụng rèn kĩ năng nói trong tất các tiết học Ngoại ngữ. II. Phạm vi ứng dụng chuyên đề: - Môn Tiếng Anh lớp 6 (Chương trình mới). III. Thành viên thực hiện chuyên đề Đ.c Lương Thị Tố Uyên – GV dạy Tiếng Anh lớp 6A,B,C IV. Thời gian hoàn thành, tổ chức báo cáo nghiệm thu - Tháng 11 (hoặc tháng 12) năm học 2019-2020 . V. Việc áp dụng chuyên đề được thực nghiệm - Dạy 01 tiết thực nghiệm/ GV - GV giảng dạy tại các lớp 6 - Tổ dự giờ, góp ý, đánh giá, rút kinh nghiệm CHUYÊN ĐỀ: “RÈN KĨ NĂNG NÓI TIẾNG ANH TRONG CÁC TIẾT HỌC NGOẠI NGỮ CHO HỌC SINH LỚP 6 TẠI TRƯỜNG THCS HƯNG THÀNH” I/ Đặt vấn đề: Trong xu thế hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay, hơn lúc nào hết, tiếng Anh được xem như một ngôn ngữ phổ thông nhất, là phương tiện đặc biệt hữu ích phục vụ cho việc giao tiếp, trao đổi kinh tế, văn hóa...v..v..trên toàn thế giới. Đối với nước ta, việc học Tiếng Anh đã và đang được chú trọng ở tất cả các bậc học, thậm chí là từ mầm non. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang thúc đẩy việc dạy và học ngoại ngữ với đề án phát triền ngoại ngữ Quốc gia năm 2020. Điều này đã thể hiện sự ý thức đầy đủ và định hướng quyết tâm của các cấp quản lí GD trong việc trang bị cho những chủ nhân tương lai của đất nước thứ ngôn ngữ chìa khóa này. Sử dụng tốt Tiếng Anh trong giao tiếp đang là mục tiêu hướng đến của hoạt động dạy - học môn Tiêng Anh xuyên suốt các bậc học. Như chúng ta đã biết, theo chương trình sách giáo khoa ở bậc THCS, học sinh được học Tiếng Anh trong 4 năm. Khoảng thời gian này không dài nhưng cũng đủ để tiếp thu và sử dụng tương đối tốt một ngoại ngữ như Tiếng Anh. Bên cạnh đó, việc triển khai phương pháp dạy học giao tiếp ( communicative approach) đã tạo ra những giá trị nhất định đối với HS. II. Nội dung 1. Các bước tiến hành
  3. - GV tìm hiểu thông tin; Tham khảo tài liệu; Quan sát. - Nhóm chuyên môn thảo luận, phân tích về nội dung, tính khả thi của chuyên đề; tiến hành bổ sung hoàn thiện. - Tuỳ vào điều kiện cụ thể về trình độ học sinh, thời gian tiến hành và thiết bị dạy học, giáo viên có thể áp dụng linh hoạt giữa phương pháp truyền thống với các phương pháp mới vào giảng dạy để giờ học đạt được kết quả tốt, phát huy được tính tư duy, sáng tạo của học sinh. 2. Các bước thực hiện a. Rèn luyện phát âm cho học sinh: Trong quá trình học ngoại ngữ, muốn người khác hiểu nội dung mình nói gì trong khi giao tiếp bằng tiếng Anh, học sinh cần phải phát âm từ và câu một cách rõ ràng. Với học sinh vùng nông thôn như trường THCS Hưng Thành, do ít có cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài cũng như không có điều kiện để mua những băng đĩa Tiếng Anh học thêm mà các em chỉ được nghe băng đĩa tiếng Anh giáo viên cho nghe trên lớp nên có xu hướng phát âm tiếng Anh theo cách Việt hoá. Vì vậy, ngay từ đầu giáo viên tiếng Anh phải phát âm một cách chuẩn xác nhất để các em bắt chước và đây là một trong những yếu tố cơ bản trong việc dạy nghe – nói. Giáo viên kiên trì luyện tập phát âm cho học sinh để tạo cho các em có thói quen phát âm đúng và phải phát âm đúng. Bởi lẽ, nếu các em bước đầu học tiếng Anh mà phát âm sai thì sẽ thành thói quen ảnh hưởng không tốt trong quá trình học và giao tiếp sau này. Sau đây tôi xin chia sẻ một số trường hợp khó khi phát âm và một số cách để phát âm đúng trong quá trình dạy: Nếu một học sinh gặp khó khăn khi phát âm một yếu tố nào đó, GV không nên bắt HS đó đứng dậy đọc đi đọc lại nhiều lần mà nên yêu cầu cả lớp đọc đồng thanh mẫu đó vài lần. Sau đó học sinh tiếp tục luyện đôi và khi đó giáo viên có thể tiếp tục giúp đỡ những học sinh khó khăn. b. Rèn luyện tín hiệu phi ngôn ngữ: Giao tiếp phi ngôn ngữ là một kĩ năng mềm được thể hiện qua nét mặt, ánh mắt, nụ cười, cử chỉ, tư thế Ánh mắt kèm theo lời nói sẽ khiến cho lời nói truyền cảm và thuyết phục hơn. Lời nói đi kèm với nụ cười sẽ khiến cho cuộc giao tiếp trở nên thân thiện và gần gũi. Cho nên trong tất cả các tiết dạy ngoại ngữ tôi luôn chú trọng đến việc rèn luyện tín hiệu phi ngôn ngữ. Cụ thể như sau: - Kiểm soát tầm nhìn (nhìn xa, gần, nhìn vào người đang đối thoại, cần thể hiện ánh mắt linh hoạt, tập trung ) tránh kiểu nhìn lơ đễnh, mông lung khi đang nói. - Chú trọng đến yếu tố cử chỉ điệu bộ (khuôn mặt, ánh mắt, nụ cười, body language, gật đầu, lắc đầu ) - Giữ tác phong lịch sự khi giao tiếp (tóc, quần áo ). - Trong giờ học giáo viên nên dùng hình vẽ, cử chỉ, các hành động khác phi lời nói để diễn đạt 1 từ. Khi nói chuyện bằng Tiếng Anh, cố gắng diễn đạt bằng mọi cách có thể được kể cả dùng điệu bộ. - Giáo viên cần phải nhắc nhở học sinh rèn luyện các yêu cầu trên mỗi ngày. Cần chú ý rằng cung cấp cho học sinh ngữ liệu không khó bằng việc sử dụng ngữ liệu đó vào giao tiếp. Vì vậy giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh
  4. có thời gian thực hành nói thường xuyên giúp các em tự tin, mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình và cũng giúp học sinh phát hiện những hạn chế và tự sửa sai. c. Luyện tín hiệu ngôn ngữ: - Phù hợp với cuộc nói chuyện, thể hiện sắc thái biểu cảm (vui, buồn, ngạc nhiên, tò mò ) Đủ âm lượng (cường độ, cao độ ) giọng điệu gây sự chú ý, gây cảm tình với người đối diện. - Bỏ thói quen xấu thông thường trong khi nói (ờ .à ). d. Tập cho học sinh phản xạ nhanh bằng tiếng Anh: Ngay khi làm quen với tiếng Anh, tuy các em chưa có vốn từ vựng (nếu có thì rất hạn chế) thì giáo viên vẫn nên tăng cường nói tiếng Anh trên lớp, thường là các câu mệnh lệnh đơn giản các em đã được học ở cấp tiểu học như: Stand up, please/ Sit down, please/ Open your book, please/ Close your book, please/ Look at your book / the picture on page / Listen and repeat/ Come on/ Go to the board Nhìn chung, lúc đầu học sinh còn ngơ ngác nhưng dần dần qua các tiết học các em cũng đều hiểu và làm theo đúng mệnh lệnh của giáo viên. Cụ thể tôi đã rèn tập phản xạ cho học sinh như sau: - Sau khi các em đã học được mẫu câu mới thì giáo viên nên sử dụng thường xuyên trong lớp học để các em có điều kiện phản xạ tốt - Tập cho học sinh không nên hiểu ngầm tiếng Việt rồi mới dịch sang Tiếng Anh. VD: Khi được hỏi: Where do you go? Thì học sinh phải hiểu và trả lời ngay: I go to chứ không nên ngầm dịch sang tiếng Việt rồi mới trả lời. - Để học sinh nhớ nhanh và hiểu tiếng Anh thì nhất thiết các em phải sử dụng nó. Cho nên giáo viên cần phải làm cho các em yêu thích học nói tiếng Anh. Cụ thể là thông qua các bài giảng powerpoint có họa tiết đẹp, lồng các bộ phim hoạt hình, các trò chơi, các đồ dùng hay gặp liên quan đến nội dung bài học, làm cho các em có hứng thú với các dòng chữ, âm thanh khác với tiếng Việt, chơi trò chơi và tập hát theo phim, theo đĩa, theo ca sĩ, theo các bài hát tiếng Anh. Kết hợp đưa các trò chơi hay các bài hát Tiếng Anh trong các tiết dạy nói làm cho khả năng ngôn ngữ của các em mới phát triển được. Chúng ta đang tạo một môi trường xung quanh kích thích các em thấy rằng học Tiếng Anh là rất cần thiết. e.Tổ chức hoạt động theo cặp- nhóm(còn gọi là nói tương tác). Thông thường hoạt động này được sử dụng nhiều hơn là nói độc thoại. Nó bao gồm các cuộc đối thoại, hội thoại, thảo luận nhóm nhằm mục đích tìm hiểu thông tin mình muốn Cho nên tôi đã nhận thấy những ưu điểm như sau: - Đây là hoạt động đắc lực và lý tưởng nhất trong quá trình luyện nói. - Tất cả học sinh sẽ được làm việc cùng một thời gian. - Giúp chúng ta giải quyết được nhiều vấn đề. - Học sinh học tập lẫn nhau trong quá trình luyện tập, đó là cơ hội để chia sẻ thông tin và hỏi những điều mình chưa rõ, đồng thời người thầy cũng dễ dàng kiểm soát học sinh bằng cách đi đi lại lại trong lớp, lắng nghe và can thiệp khi cần thiết. f. Sửa lỗi cho học sinh một cách thích hợp Việc sửa lỗi phát âm, lỗi ngữ pháp cho học sinh trong khi nói là một việc làm quan trọng. Tuy nhiên, làm thế nào để sửa lỗi cho các em, sửa lỗi vào thời điểm nào cho thích hợp là một việc làm đòi hỏi sự tế nhị và mang tính sư phạm
  5. cao. Cho nên trong các tiết dạy ngoại ngữ, đặc biệt là tiết luyện nói tôi thường lưu ý một số trường hợp như sau: - Khi học sinh đang thực hành phát âm một câu nói nào đó cho đúng thì đây là thời điểm thích hợp để giáo viên sửa lỗi khi các em đọc sai. - Đối với trường hợp khi học sinh đang tập trung suy nghĩ và tìm ý tưởng từ vựng để thể hiện một nội dung nào đó, giáo viên không nên ngắt lời để sửa lỗi vì điều này sẽ làm mất đi sự tự tin, tính hiếu động, thích tham dự vào các hoạt động rèn luyện giao tiếp của các em. - Giáo viên cần có thái độ tích cực đối với lỗi ngôn ngữ của học sinh. Chấp nhận lỗi như một phần tất yếu trong quá trình học ngoại ngữ, giúp học sinh học tập được từ chính lỗi của bản thân và bạn bè. g. Tổ chức “Đôi bạn nói Tiếng Anh” hoặc “Nhóm bạn nói Tiếng Anh” Ở trường qua quá trình tìm hiểu địa bàn cư trú của học sinh, các em ở gần nhà nhau rất nhiều, một xóm luôn có một số em học cùng lớp. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn tổ chức cho các em thành lập đôi bạn nói tiếng Anh hoặc nhóm bạn nói tiếng Anh ở lớp và ở nhà vào thời gian rảnh. Sau mỗi tiết học trên lớp, giáo viên gợi ý đề tài, mẫu câu, mẫu hội thoại. Học sinh về nhà tự tìm ý tưởng và vốn từ vựng để nói với nhau. Mục đích giáo viên củng cố từ vựng, mẫu câu, giúp các em nói theo hướng “Nói tiếng Anh tự nhiên”. Trước mỗi tiết học, giáo viên cho các đôi bạn hoặc nhóm bạn trình bày trước lớp. Giáo viên có nhiều hình thức khen thưởng để động viên tinh thần cho các em. h. Giáo viên luôn thực hiện tốt các bước luyện nói cho HS: Quá trình luyện nói, phải tuân theo qui trình bao gồm: * Chuẩn bị nói (Pre – Speaking) - Giới thiệu bài nói mẫu - Luyện đọc cho HS (Chú ý cách phát âm) - GV dùng câu hỏi gợi mở để HS tự rút ra cách sử dụng từ và cấu trúc câu. * Luyện nói có kiểm soát (Controlled Practice) - HS dựa vào tình huống gợi ý (qua tranh vẽ, từ ngữ cấu trúc câu cho sẵn hoặc bài hội thoại mẫu) để luyện nói theo yêu cầu. - HS luyện theo cá nhân/cặp/nhóm dưới sự kiểm soát của GV (sửa lỗi phát âm, lỗi ngữ pháp, gợi ý từ ) - GV gọi cá nhân hoăc cặp HS trình bày phần thực hành nói theo yêu cầu. * Luyện nói tự do (Free Practical Production) - HS sử dụng mẫu câu để nói về những đồ vật xung quanh chúng. - GV không nên hạn chế về ý tưởng cũng như ngôn ngữ, nên để HS tự nói, phát huy khả năng sáng tạo của bản thân. III. Kết luận: V.L. Lê nin nói “Học, học nữa, học mãi” tôi nghĩ biển học là không bờ. Chính vì vậy, mỗi giáo viên cũng như mỗi học sinh đều có con đường riêng để đến với kiến thức. Trong phạm vi nhỏ hẹp của giải pháp này tôi chỉ mong mình có thể rút ngắn quãng đường giúp học sinh của mình tiếp cận được bờ của tri thức. Song hành với việc đổi mới chương trình, nội dung sách giáo khoa, tăng cường trang thiết bị dạy học . việc đổi mới phương pháp giảng dạy trong trường THCS hiện nay là nhu cầu thiết thực. Công việc đổi mới dạy học sẽ khó đồng bộ nếu như
  6. không có một phương pháp dạy và học phù hợp với chương trình, sách giáo khoa nhằm phát huy khả năng sáng tạo và sự phát triển toàn diện con người học sinh trong nhà trường. Do vậy trong chuyên đề này tôi đề xuất một số phương cách hữu hiệu nhất để có thể: + Kích thích khả năng tư duy của học sinh trong quá trình tiếp cận kiến thức và thực hành nói Tiếng Anh + Tạo cho học sinh tâm thế háo hức khi tham gia nói bằng TIếng anh. + Phát hiện ngay những yếu điểm trong giao tiếp của học sinh khi kiểm tra. Mặt khác, học sinh có thể ứng dụng kiến thức mới học ngay lập tức sau khi các em hiểu được kiến thức đó. Và thực hiện nói theo chủ đề sau mỗi đơn vị bài học. HS trung bình, yếu tích cực hơn trong giờ học; HS yêu thích học tập bộ môn hơn, khắc phục tình trạng rụt rè, nhút nhát trong các hoạt động luyện tập ở lớp hoạt động, sôi nỗi hơn trong các giờ học. Date of preparation Date of teaching Class Absentees /11/2019 .......................... 6C Period 36 UNIT 5: NATURAL WONDERS OF THE WORLD Leson 4: COMMUNICATION I. OBJECTIVES 1) Knowledge: a. Vocabulary: words related to the topic “things in nature” and “travel items” b. Structure: must/ mustn’t. 2) Skills : to develop reading, speaking. 3) Attitude: Ss are aware of doing good things to protect natural wonders and be more responsible for protecting them 4. Competence development: Pairwork and independent working, II. TEACHING AIDS 1. Teacher: Textbooks, cards, real objects, pictures, TV, online book (Computer accessed to the Internet) 2. Students: Textbooks, paper. III. PROCEDURE 1. Checking: During the lesson 2. New lesson: Lesson 4: Communication Teacher's and Students's activities Contents 1. Warm up * Aim: To warm up the class and lead in the new lesson 1. Warm up. - T. asks Ss to look at the picture on Chatting.
  7. book and guess what are the pictures about? What is the name of this mountain? - Ss look at the picture and talk about the things they know about Himalaya mountain range 2. Presentation * Aim: - To understand the meaning of the words related to the topic “things in nature” and “travel items” and review the structures - Introduce the words. 1. Extra vocabulary - Ss read vocab in chorus. - sun hat (n): ( picture) - Check: Rub out and remember - waterproof coat (n): picture - mobile phone (n): ( reality) 2. Structure - comparative and superlative adjectives to describe things in nature - must and mustn’t to give orders 3. Practice *Aim: Ss will be able to use comparative and superlative adjectives to describe things in nature; use must and mustn’t to give orders - Show Ss the situation of Mount Everest. T: look at this photo. It is Mount Everest, the highest mountain in the world. Let’s think if we go there what must we bring ? Must we bring a torch? A tent ? Why? 1. Read the travel guide entry - Ask Ss to read the text quickly and Eg: check their ideas. - Must we take a torch / mobile phone / - Ask Ss: Have you had any to Mount Everest? unforgettable experiences? 2. Make a list of the thing you must to take to the Himalayas - Ss use information in the text and their own idea to fill in the “must” and ‘mustn’t column’ MUST MUSTN’T - T. calls a student to the board and Compass . write the correct answer . .. .. 3. Role-play being a tour guide and a - Ss create their own list and tourist. Tell your partner what to demonstrate the activities with more prepare for their trip to the Himalayas. Try to give reasons.
  8. able St. Swap roles. * Example: - T: ask the class to complete the role- A: I want to go to the Himalayas play. B: OK. I think you must take a - Some pairs too demonstrate for the waterproof coat. It’s the highest class. mountain in the world. It’s cold and rainy there! A: Yes. Anything else ? B: 4. Further practice * Aim: To Talk about and give travel advice. - Ask Ss to complete the role-play. 4. Perform your role-play for the - Ask pairs to demonstrate for the class class. 3. Guides for homework - Write what you must/ must prepare to Mount Everest. - Prepare the next lesson: Skills : + Read carefully “ study skills” + Read the passage and look up some words: essential, cuisine, attraction