Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_c.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi
- I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài “Trẻ lên ba cả nhà học nói”. Câu nói ấy một lần nữa đã khẳng định vị trí quan trọng của ngôn ngữ đối với sự phát triển toàn diện ở trẻ em. Ngôn ngữ có vai trò là một phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh. Trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, công dụng của các sự vật cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em . Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người . Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là phương tiện giao lưu bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử- xã hội của loài người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn. Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Như vậy ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Là một cô giáo mầm non trực tiếp dạy trẻ 24 - 36 tháng tuổi, tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát triển ngôn ngữ, tăng vốn từ, phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng Việt. Vì thế tôi đã dạy các con thông qua các môn học khác nhau và dạy các con ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi. 1
- Như vậy “Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy”, là công cụ để giúp phát triển tư duy và là phương tiện để giáo dục tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ cho trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ những nhu cầu, mong muốn của mình với mọi người xung quanh, ngôn ngữ còn giúp cá nhân trẻ phát huy được năng lực của mình. Nhưng thực tế phần lớn các bố mẹ đều bận rộn, lo toan cho cuộc sống, thời gian bố mẹ trò chuyện với trẻ để phát triển vốn từ còn ít. Một số cha mẹ của trẻ nhận thức về tầm quan trọng của ngôn ngữ còn hạn chế. Do vậy vốn từ của trẻ em ngày nay phát triển chậm và nghèo nàn, chủ yếu trẻ được tiếp xúc và phát triển ngôn ngữ thông qua ti vi, điện thoại chưa được sự chỉ bảo, uốn nắn của người lớn. Rất nhiều phụ huynh khi đưa con tới lớp ở lứa tuổi nhà trẻ 24 -36 tháng thường trao đổi với tôi những băn khoăn của họ như: Con chưa biết nói cô ạ. Bạn này nói ít lắm. Phải làm sao để con nói được nhiều hơn nữa hả cô?... Bên cạnh đó nhiều trẻ mới đi học, còn quấy khóc. Đa số trong hoạt động nhật biết trẻ chưa được nói nhiều, chưa được trải nghiệm hết các giác quan: Nhìn, sờ, nếm, ngửi. Chủ yếu trẻ chỉ được nhìn và được nói tập thể nhiều lần. Trước thực trạng trên tôi luôn trăn trở làm sao để các con có vốn ngôn ngữ phát triển tốt theo yêu cầu của độ tuổi? Làm thế nào để các con phát triển ngôn ngữ, tăng vốn từ, phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng Việt? Làm thế nào giúp các con tự tin trong giao tiếp, biết diễn đạt tình cảm, ý muốn của bản thân bằng lời nói...Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi” nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đối với chương trình giáo dục mầm non hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu: Để tìm ra các biện pháp tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ nhằm phát triển ngôn ngữ, tăng vốn từ cho trẻ, từ đó tìm biện pháp nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ tại nhóm trẻ tôi phụ trách và tại đơn vị trường. 2
- 3. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng giảng dạy, đội ngũ giáo viên, tâm sinh lý lứa tuổi, phướng pháp dạy học và một số biện pháp áp dụng để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi. - Phạm vi nghiên cứu: Nhóm trẻ 24-36 tháng tuổi tại trường mầm Tràng Đà, thành phố Tuyên Quang. 4. Kế hoạch nghiên cứu TT Thời gian Nội dung công việc Sản phẩm 1 Từ 25/9/2020 -Chọn đề tài, viết đề cương -Bản đề cương chi tiết. đến 30/9/2020 nghiên cứu. 2 Từ 01/10/2020 - Đọc tài liệu lý thuyết về cơ sở - Các loại tài liệu về lĩnh vực đến 30/10/2020 lý luận. phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong trường mầm non. - Khảo sát thực trạng, tổng hợp - Khảo sát số trẻ 24 - 36 tháng tuổi trong trường là số liệu thực tế. 49/49 cháu. 3 Từ 01/11/2020 -Trao đổi với giáo viên đề xuất -Tập hợp ý kiến đóng góp đến 15/03/2021 các biện pháp và bồi dưỡng, của đồng nghiệp. hình thức tổ chức thực hiện. -Áp dụng thử nghiệm. - Các hoạt động cụ thể. 4 Từ 16/03/2021 - Hệ thống hóa tài liệu, viết báo - Viết bản nháp báo cáo. đến 29/04/2021 cáo. - Xin ý kiến của đồng nghiệp. 5 Từ 02/5/2021 - Hoàn thiện báo cáo, nộp Hội - Bản báo cáo chính thức đến 20/5/2021 đồng Sáng kiến cấp cơ sở. 5.Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận + Các loại tài liệu về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ, vốn từ. 3
- + Chương trình giáo dục mầm non (Đã chỉnh sửa). - Phương pháp lý luận + Phương pháp nghiên cứu, đọc tài liệu. + Phương pháp điều tra, khảo sát. + Phương pháp đối chiếu, so sánh. - Phương pháp thực tiễn + Quan sát khoa học. + Quan sát hoạt động của giáo viên và trẻ trong các hoạt động chăm sóc, giáo dục tại nhóm trẻ. +Phương pháp dùng lời: Đàm thoại, giảng giải... - Khảo sát + Khảo sát cơ sở vật chất. + Khảo sát mức độ nhận thức của trẻ. - Thực nghiệm khoa học. + Áp dụng một số biện pháp, nhằm đưa ra các hình thức để phát triển ngôn ngữ, vốn từ cho trẻ. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến Theo Thông tư 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25/07/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Thông tư 28/2016/TT-BGDĐT ngày 30/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Chương trình Giáo dục mầm non ban hành kèm theo Thông tư 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25/07/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, đã đưa ra một số mục tiêu trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ như sau: + Nghe hiểu được các yêu cầu đơn giản bằng lời nói. + Biết hỏi và trả lời một số câu hỏi đơn giản bằng lời nói, cử chỉ. + Sử dụng lời nói để giao tiếp, diễn đạt nhu cầu. + Có khả năng cảm nhận vần điệu, nhịp điệu của câu thơ và ngữ điệu của lời nói. + Hồn nhiên trong giao tiếp. 4
- Trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ dể giao tiếp với mọi người xung quanh và ngôn ngữ chính là phương tiện cho việc dạy và học. Đối với trẻ mầm non thì qua giao tiếp bằng ngôn ngữ và tư duy trẻ thu được các kinh nghiệm sống làm phong phú thêm sự hiểu biết của trẻ.cụ thể trẻ nhà trẻ thì nhận thức và ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, trẻ mới đang tập nói, có trẻ mới nói được câu 2-3 từ, có trẻ thì đã nói được câu 4-6 từ, có trẻ nói chưa trọn vẹn được câu, trẻ chưa diễn đạt được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản chính vì vậy mà phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc làm cần thiết. Đối với trẻ nhà trẻ phát triển ngôn ngữ chính là việc phát triển các khả năng nghe, hiểu, nói của trẻ. Để phát triển các khả năng này thì việc dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, tập nói, trò chuyện, giao tiếp với trẻ thông qua các hoạt động giáo dục trẻ trong ngày chính là việc làm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. - Căn cứ vào thực tế, kết quả các tiết dạy thơ, chuyện, tập nói. - Căn cứ vào nhu cầu cần được giao tiếp, trò chuyện của trẻ. - Căn cứ vào sách hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình CSGD trẻ. *Về đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ giai đoạn 24-36 tháng tuổi Đến giai đoạn này, trẻ đã nhận biết và sử dụng được tên gọi của người quen, đồ vật quen thuộc trong nhà, các bộ phận cơ thể. Trẻ biết lắng nghe những câu chuyện ngắn, tập trung quan sát cuộc nói chuyện của người lớn, dễ dàng lặp lại những từ nghe lỏm được, và biết nghe theo các chỉ dẫn, hiệu lệnh đơn giản mà không cần có cử chỉ hay hành động đi kèm. Cuối giai đoạn, trẻ có thể tự đặt những câu hỏi như cái gì? đi đâu? Vì vậy phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc chúng ta làm phong phú vốn từ cho trẻ để trẻ có thể diễn đạt được ý muốn của bản thân, các sự vật, hiện tượng thông qua ngôn ngữ. Đồng thời giúp trẻ hiểu được nghĩa của từ để từ, trẻ biết sử dụng từ phù hợp với hoàn cảnh, tình huống, giúp trẻ sử dụng câu chính xác, từ câu đơn giản đến câu đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ. Giáo dục ngôn ngữ còn là giáo dục văn hóa giao tiếp cho trẻ. Trẻ ở độ tuổi 24 đến 36 tháng có số lượng từ tăng nhanh, vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, các loại khác như tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ tuổi của trẻ. Trẻ ở lứa tuổi này không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật, hành động cụ thể mà có thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, 5
- thời gian và các mối quan hệ. Tuy nhiên vốn từ của mỗi trẻ đa số là còn ở mức nghèo nàn, cùng với mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ còn rất hạn chế, chưa kể đến tình trạng trẻ phát âm không đúng, nói không đủ câu, nói lắp, nói ngọng,...Chính vì vậy phụ huynh và giáo viên hướng dẫn trẻ như thế nào để ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt là điều rất quan trọng. Tại ngôi trường nơi tôi công tác, tôi nhận thấy một thuận lợi là trẻ ở trường với cô cả ngày nên việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua các hoạt động trong ngày là rất hợp lí. Ngay từ giờ đón trẻ, tôi có cơ hội giao tiếp với trẻ một cách tích cực, tôi luôn khơi gợi và tạo cho trẻ những cảm xúc tốt đẹp ngay từ buổi sáng. Đây là tiền đề để trẻ tích cực, chủ động tham gia vào các hoạt động khác trong ngày như: Hoạt động có chủ định, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời. Việc tạo cho trẻ môi trường ngôn ngữ tích cực sẽ giúp trẻ bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ, giao tiếp trong học tập cũng như vui chơi. Từ đó trẻ có vốn từ phong phú, nói rõ ràng, khă năng nghe và hiểu tốt hơn sẽ giúp trẻ tự tin hơn trong giao tiếp, giao tiếp chủ động và tích cực hơn. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến a.Thuận lợi * Đối với nhà trường. Được sự quan tâm của Sở Giáo dục - Đào tạo và Phòng Giáo dục- Đào tạo thành phố Tuyên Quang, đã tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên và tập huấn, chỉ đạo các trường thực hiện các chuyên đề, các hội thi... Nhà trường được đầu tư xây dựng mới nên có đầy đủ các phòng chức năng, lớp học rộng, thoáng, đầy đủ đồ dùng đồ chơi. Sân trường rộng, thoáng, xanh, sạch, đẹp. * Đối với giáo viên. - 50% giáo viên đạt trình độ chuẩn và 50 % đạt trình độ trên chuẩn, nên việc chăm sóc giáo dục trẻ được tốt hơn. - Chế độ chính sách cho giáo viên mầm non đã được Nhà nước quan tâm, nên giúp giáo viên nhiệt tình hơn, yêu nghề tận tụy với nghề hơn. * Đối với trẻ. 6
- - 100% trẻ được bán trú tại trường, nên việc chăm sóc giáo dục trẻ được liên tục trong ngày. - Sĩ số trẻ trong nhóm hợp lý, cho nên việc chăm sóc và tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ cũng được tốt hơn. b. Khó khăn * Về cơ sở vật chất - Đồ dùng được trang cấp còn thiếu. * Về đội ngũ - Một số giáo viên chưa có kinh nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. - Giáo viên còn có tư tưởng làm đúng, đủ, không sáng tạo, không có nhiều hình thức tổ chức các ngày lễ, ngày hội. - Chưa nêu cao lòng nhiệt huyết với nghề nghiệp của mình. - Một số giáo viên còn thụ động trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. * Về phía trẻ - Ngôn ngữ của trẻ đầu năm còn hạn chế, trẻ chỉ nói được 1 đến 2 từ đơn giản như: Ạ, vâng, bố, mẹ, bà, cô. - Các trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tự tin. * Về phía phụ huynh - Đa số phụ huynh đi làm cả ngày, họ thường ít có thời gian bên con, trò chuyện với con. - Có một số phụ huynh còn xem nhẹ khả năng nói của con, họ nghĩ để con phát triển tự nhiên, dần dần sẽ tự biết nói. * Số liệu điều tra trước khi thực hiện - Tổng số trẻ 24-36 tháng tuổi: 49 cháu. - Tổng số giáo viên dạy lớp 24 - 36 tháng tuổi: 04 giáo viên. c. Khảo sát điều kiện thực trạng Tháng 9/2020, tôi tiến hành khảo sát 49 trẻ nhà trẻ 24-36 tháng và có kết quả như sau: 7
- Trung Tốt Khá Yếu Phân loại khả năng ngôn bình ngữ của trẻ SL % SL % SL % SL % Vốn từ 10 20,4 15 30,6 14 28,6 10 20,4 Khả năng phát âm 10 20,4 14 28,6 12 24,5 13 26,5 Khả năng nghe và hiểu 11 22,4 14 28,6 14 28,6 10 20,4 ngôn ngữ Khả năng nói đủ câu, rõ 9 18,4 13 26,5 13 26,5 14 28,6 ràng, mạch lạc Căn cứ vào kết quả trên, tôi nhận thấy khả năng ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế. Tỉ lệ tốt đạt kết quả thấp, tỉ lệ yếu cao. Tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi qua các hoạt động trong ngày ở trường mầm non Tràng Đà, thành phố Tuyên Quang như sau: 3. Các giải pháp thực hiện sáng kiến 3.1. Biện pháp 1: Làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo Như vậy chúng ta có thể nói lớp học mầm non không thể không có đồ chơi cũng như giáo viên mầm non không thể không có đồ dùng dạy học. Do đó, bằng mọi hình thức, nhà trường và các cô giáo cần cung cấp cho trẻ đồ chơi càng nhiều càng tốt. Đồ chơi có vai trò quan trọng như vậy nhưng không phải tất cả trẻ em đều có đồ chơi. Việc giáo viên mầm non tự làm đồ chơi mục đích trước hết để cung cấp thêm đồ chơi cho lớp, bù đắp sự thiếu thốn và giảm chi phí mua sắm. Trẻ rất hứng thú với tất cả các loại đồ chơi và nhất là những đồ chơi tự làm đơn giản đều có chức năng giúp trẻ tiếp cận với thế giới xung quanh, giúp trẻ giải trí và học tập. Để có những món đồ chơi tự tạo, hiệu quả và tiết kiệm nhất là chọn các vật liệu tự nhiên và tái chế...Đá, sỏi, cát, đất sét, nước, cây, lá, hạt quả,... đều có thể tạo thành các nóm đồ chơi thân thiện gần gũi với thiên nhiên. Các vỏ hộp bánh, sữa, chai nước uống, lon nước ngọt...thay vì vứt ra thùng rác có thể chế tác thành đồ chơi đẹp và bền. Điều đó còn góp phần giảm lượng rác thải và khuyến khích để trẻ hình thành ý thức bảo vệ môi trường. Hơn thế nữa việc mua quá nhiều đồ chơi cho 8
- trẻ làm ảnh hưởng đến tiền bạc của các bậc phụ huynh trong khi các phụ, phế phẩm từ gia đình đang sẵn có và có rất nhiều để cho các cháu có thể sử dụng tái tạo làm đồ chơi cho chính mình. Khi món đồ chơi do tự tay mình làm ra, các cháu sẽ cảm thấy yêu quí và hứng thú hơn rất nhiều so với các đồ chơi mua sẵn. Với việc làm đồ dùng đồ chơi từ những nguyên vật liệu thiên nhiên, hay phế thải tạo nhiều đồ chơi cho trẻ, góp phần bảo vệ môi trường và đáp ứng nhu cầu chơi của trẻ, đặc biệt là ở trường mầm non nằm ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn như trường của tôi. Tôi nhận thấy đồ chơi này rất dễ làm, dễ chơi và rất dễ hoạt động Cách thức chơi cũng sẽ được thay đổi theo sự phát triển của trẻ, theo nhiều chủ đề và càng có nhiều cách chơi với một đồ chơi thì trẻ sẽ học hỏi được càng nhiều. 3.2. Biện pháp 2: Xây dựng góc trọng tâm trong năm học Với việc tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ theo hướng “ lấy trẻ làm trung tâm” trong trường mầm non là một hình thức khơi gợi sự tích cực, chủ động của trẻ trong các hoạt động, đối với lĩnh vực phát triển ngôn ngữ và phát triển nhận thức, trẻ được tri giác, sờ, cầm các đồ dùng, đồ chơi ở các góc góp phần phát triển ngôn ngữ, trí tưởng tượng của trẻ, ngoài việc xây dựng môi trường góc theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm, tôi đã lựa chọn và xây dựng trên lớp mình các góc chuyên đề trọng tâm trong năm học nhằm tạo cho trẻ có cơ hội trải nghiệm, phát triển ngôn ngữ, phát triển vốn từ cho trẻ trong các hoạt động. Trong lớp các mảng tường được tôi trang trí bằng các hình ảnh, màu sác rực rỡ, luôn thay đổi theo các chủ đề cho phù hợp, để trẻ thu hút trẻ, tránh sự nhàm chán, tạo sụ hấp dẫn, tính tò mò để trẻ tự khám phá môi trường xung quanh. Bên cạnh đó tôi còn trang trí, sắp xếp các đồ dùng, đồ chơi theo từng chủ điểm hoặc bằng các mô hình, khối hình được lắp giáp theo chủ đề, để cho trẻ thích thú và hấp dẫn và kích thích trẻ. Môi trường trong và ngoài lớp học được xây dụng theo hướng tận dụng mọi khoảng không gian cho trẻ hoạt động, có đồ dùng đồ chơi ngoài trời, có vườn cổ tích, có chợ quê cho trẻ chơi, quan sát. a.Góc nghệ thuật ( Tạo hình; Âm nhạc; Truyện tranh) 9
- Tôi nhận thấy góc chơi này vừa cung cấp cho trẻ những từ ngữ mới, vừa ôn luyện, củng cố cho trẻ những từ, câu đã học, trẻ được vận dụng vào thực tế thông qua hình ảnh minh họa, tranh truyện minh họa, tranh nhận biết tập nói...qua các bộ rối tay, rối ngón tay, rối bông... *Về truyện tranh. Lựa chọn một số sách truyện, các con vật, cây cối, truyện cổ tích phù hợp với độ tuổi và bố trí trên các giá, kệ thuận tiện cho việc sử dụng của trẻ. Khu vực này cần đủ ánh sáng, tránh ồn ào, xây dựng môi trường góc chơi áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, góc chơi sắp xếp một cách hợp lí, trang trí thẩm mĩ, thân thiện, phù hợp với lứa tuổi. Tại góc chơi này tôi tạo cho trẻ không gian mở với các khu vực riêng như: Khu vực có nhiều gối để trẻ có thể thư giãn, thoái mái ngồi, nằm xem tranh truyện. Bên cạnh đó là chiếc bàn nhỏ xinh để trẻ có thể đặt sách truyện lên và “đọc sách”. Tiếp đến là khu vực dành cho những con rối đáng yêu, với ngôi nhà rối ngộ nghĩnh, tôi còn tạo ra khung rối phù hợp với trẻ để trẻ tập kể chuyện. Những chiếc gối nhỏ dành cho khán giả nào thích xem các bạn tập kể. Đặc biệt tôi chuẩn bị thêm các đồ dùng, đồ chơi tính mở như: Làm bộ sách theo từng chủ đề: Sách có tranh hoàn thiện, cũng có tranh chưa hoàn thiện để trẻ học bằng chơi. Trong giờ chơi cô chơi cùng trẻ để trẻ biết cách chơi, lần sau trẻ tự chơi, cô quan sát và gợi ý giúp trẻ có thêm ý tưởng. Ví dụ ngoài cách giở xem sách truyện trẻ có thể kể chuyện theo tranh, có thể đọc những câu đơn giản, phù hợp với bức tranh đó...Trẻ học bằng chơi nên qua từng trang sách trẻ nói được từ, câu đơn giản về con vật, cây, quả, những hành động của con vật... *Về tạo hình Chuẩn bị những nguyên liệu tạo hình như: Sáp màu, đất nặn, giấy màu, keo dán, bút chì, màu nước, bảng con, khăn ướt Khu vực này cố định để đặt các giá, kệ đựng nguyên vật liệu, đồ dùng, sản phẩm của trẻ. Ở góc chơi này thu hút được trẻ tích cực tham gia hoạt động để tạo ra sản phẩm, vì vậy tôi luôn chú trọng trang trí, sắp xếp đồ dùng đồ chơi hợp lý và cho trẻ tự lấy và thực hiện theo ý thích của trẻ. *Về âm nhạc 10