Sáng kiến kinh nghiệm Ôn luyện giải toán về đoạn thẳng trong hình học Lớp 6
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Ôn luyện giải toán về đoạn thẳng trong hình học Lớp 6", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_on_luyen_giai_toan_ve_doan_thang_trong.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Ôn luyện giải toán về đoạn thẳng trong hình học Lớp 6
- BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN I .Tên sáng kiến: “Ôn luyện giải toán về đoạn thẳng trong hình học lớp 6”. 1.Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi học sinh lớp 6 của trường THCS Tiên Thắng- Toàn Thắng, năm học 2022 - 2023. Ý tưởng của đề tài rất phong phú, đa dạng, phạm vi nghiên cứu rộng, nên bản thân chỉ nghiên cứu qua các phương pháp ở chương trình SGK, SBT toán 6 hiện hành. 3.Tác giả: Họ và tên: NGÔ THU HÀ Ngày/tháng/năm sinh: 10/4/1990 Chức vụ, đơn vị công tác: giáo viên trường THCS Tiên Thắng Điện thoại: DĐ 0367791856. 4. Đồng tác giả: (Không có) 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: trường THCS Tiên Thắng- Toàn Thắng Địa chỉ: Khu 4 ,Tiên Thắng, Tiên Lãng, Hải Phòng Điện thoại: 0313883323 1
- II.MÔ TẢ GIẢI PHÁP ĐÃ BIẾT Toán học là bộ môn khoa học được coi là chủ lực, bởi trước hết Toán học hình thành cho các em tính chính xác, tính hệ thống, tính khoa học và tính logic. Môn hình học nói chung rất đa dạng phong phú, riêng đối với phân môn hình học của lớp 6 học sinh được nhận thức các hình và mối liên hệ giữa chúng bằng mô tả trực quan với sự hỗ trợ của trực giác, của tưởng tượng là chủ yếu. Trong chương VIII của Hình học 6: Học sinh nhận biết các khái niệm "điểm, đường thẳng, tia, đoạn thẳng, độ dài đoạn thẳng " Giáo viên phải tìm tòi, nghiên cứu phải tham khảo tài liệu giúp các em có kỹ năng quan sát, thử nghiệm, đo vẽ, nêu nhận xét, nhận biết và phân biệt điểm, đường thẳng, tia, đoạn thẳng, độ dài đoạn thẳng, tìm ra được những sai lầm của học sinh để kịp thời uốn nắn, khắc sâu, sửa ngay những lỗi lầm mà học sinh mắc phải, làm thế nào đó để nâng cao kỹ năng giải bài tập về đoạn thẳng trong hình học lớp 6. Qua thời gian trực tiếp giảng dạy và nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa Toán 6 đặc biệt là chương VIII “những hình học cơ bản”. Hình học lớp 6 tập hai và căn cứ vào tình hình học tập của học sinh ở cấp Trung học cơ sở khác hẳn ở Tiểu học, việc tiếp nhận các kiến thức toán học nói chung và môn hình học nói riêng còn bỡ ngỡ, các em còn chưa quen với phương pháp học tập.Chính vì lí do đó tôi mạnh dạn đưa ra một sáng kiến nhỏ: “Ôn luyện giải toán về đoạn thẳng trong hình học lớp 6”.Để làm hành trang kiến thức vững chắc cho các em gặp lại dạng toán này ở các lớp trên. III . NỘI DUNG GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN III.1. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến III.1.1 Tên giải pháp “ Ôn luyện giải toán về đoạn thẳng trong hình học lớp 6” III.1.2 Mục đích, ý nghĩa Trong chương trình toán ở Tiểu học các em chưa được định hình rõ phân môn hình học, chỉ bước đầu được làm quen một số hình học đơn giản như hình vuông, hình tam giác Nhưng lên lớp 6 - lớp đầu cấp Trung học cơ sở các em sẽ được tiếp cận với bộ môn hình học ngay từ đầu năm mặc dù mỗi tuần chỉ có một 2
- tiết và bước đầu kiến thức còn rất đơn giản, chỉ dừng lại ở mức độ nhận biết và hiểu được các khái niệm mở đầu của hình học phẳng, nhưng nó là cơ sở vững chắc cho việc chứng minh suy diễn ở những lớp sau, chính vì vậy ngay từ đầu, các em phải nắm vững các khái niệm mặc dù là đơn giản. Sau khi học, các em phải biết vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế đời sống, biết vận dụng thực hành gắn liền với thực tế. III.1.2 Nội dung giải pháp mới Giải pháp tập trung chủ yếu sử dụng các phương pháp sau: 1. Khắc phục những sai lầm học sinh thường mắc phải trong việc sử dụng ngôn ngữ nói, viết, ký hiệu. Hình học lớp 6 là phần chuyển tiếp từ giai đoạn học hình học bằng quan sát, thực nghiệm ở bậc tiểu học sang giai đoạn tiếp thu kiến thức bằng suy diễn ở cấp Trung học cơ sở, ở Tiểu học mỗi hình là một chỉnh thể, bây giờ mỗi hình là một số "bộ phận" có liên hệ với nhau và ngay giữa các hình cũng có mối quan hệ nào đó. Hơn thế cách hiểu "Mỗi hình học là một tập hợp điểm" là cách hiểu hiện đại về hình học. Từ đó quan hệ "thuộc", ký hiệu giữa phần tử và tập hợp, đã biết trong lý thuyết tập hợp trở thành quan hệ được thừa nhận trong hình học. Mệnh đề thông thường "điểm M là một phần tử của tập hợp d", ký hiệu M d và đọc là "Điểm M thuộc đường thẳng d", từ các điểm ta xây dựng các hình, từ các hình này ta xây dựng nên các hình khác, đó là lôgic phát triển của hình học phẳng. Chẳng hạn: "đoạn thẳng MN là hình gồm điểm M, điểm N và các điểm nằm giữa M và N". Tuy nhiên khi giáo viên yêu cầu vẽ đoạn thẳng AB học sinh thường nhầm lẫn thành ab.Đường thẳng ta thường ký hiệu bằng chữ cái in thường nhưng cũng có khi đường thẳng đi qua hai điểm A, B ta nói là đường thẳng AB hoặc nếu đường thẳng chứa ba điểm A, B, C thì được gọi tên như thế nào? A B C 3
- Từ các cách gọi tên khác nhau của đường thẳng trên (có sáu cách: Đường thẳng AB, đường thẳng AC, ). Khi cho học sinh học về đường thẳng giáo viên phải chú ý cho học sinh đọc tên đường thẳng, nói cách viết tên đường thẳng, diễn đạt quan hệ giữa các điểm A, B với đường thẳng d bằng cách khác nhau; viết ký hiệu A d, B d. Đối với bài "Ba điểm thẳng hàng" học sinh đã có biểu tượng "Nhiều điểm thuộc đường thẳng" thì dễ cho học sinh thấy nhiều điểm cùng thuộc một đường thẳng thì thẳng hàng, nhiều điểm không thuộc bất kỳ đường thẳng nào thì không thẳng hàng. Nhưng khi xét ba điểm thẳng hàng giáo viên có thể mô tả vị trí tương đối của chúng nhờ các thuật ngữ "nằm cùng phía", "nằm khác phía", "nằm giữa" để học sinh dễ tiếp nhận hơn. Tóm lại: Để giúp học sinh học tốt môn hình học thì trước hết phải hướng dẫn học sinh để học sinh có kỹ năng nói, viết, ký hiệu một cách chính xác, không được nhầm lẫn giữa các khái niệm này với các khái niệm khác, giữa hình này với hình khác, đối với mỗi bài của chương giáo viên cần chú trọng cách viết ký hiệu, cách sử dụng ngôn ngữ ký hiệu. 2. Rèn kỹ năng vẽ hình, đọc tên phân biệt các hình và một số chú ý khi dạy: Nói đến hình học là phải nói đến hình vẽ vì vậy khâu vẽ hình là vô cùng quan trọng, nó là đặc trưng của bộ môn hình học và có vị trí vô cùng quan trọng trong việc dạy và học môn hình học. Muốn học tốt hình học trước hết phải biết vẽ hình. Các khái niệm hình học như điểm, đường thẳng là sản phẩm của sự trừu tượng hoá các đối tượng hiện thực, các hình học chỉ có trong ý thức của con người. Chấm chì để lại trên giấy là hình ảnh của điểm, vết chì vạch theo cạnh thước là hình ảnh của đường thẳng. Chấm chì, vạch đường thẳng là hình vẽ cho ta hình ảnh trực quan của điểm, đường thẳng có thể nói mỗi khái niệm, mỗi định nghĩa, mỗi nhận xét muốn đúng phải vẽ hình chính xác, nếu vẽ không chính xác sẽ dẫn đến việc hiểu sai và rất khó cho việc học tập sau này. Ví dụ 1: Vẽ ba điểm A, B, C thẳng hàng. 4
- Muốn vẽ ba điểm A, B, C thẳng hàng thì phải thoả mãn điều kiện ba điểm A, B, C cùng thuộc đường thẳng (hình a) còn nếu ba điểm A, B, C không cùng thuộc đường thẳng thì ba điểm A, B, C không thẳng hàng (hình b). (hình a) A B C (hình b) A C B Ví dụ 2: Vẽ hai tia đối nhau Ox, Oy Hai tia đối nhau thoả mãn đồng thời hai điều kiện: Chung gốc và cùng tạo thành một đường thẳng.Nếu vi phạm một trong hai điều kiện trên thì không phải là hai tia đối nhau: y x O y x O (hình a) (hình b) x A B y (hình c) Ở hình (a) vẽ hai tia Ox, Oy là hai tia đối nhau là chính xác. Ở hình (b) vẽ hai tia Ox, Oy không tạo thành một đường thẳng. Ở hình (c) vẽ hai tia Ax, By là hai tia không chung gốc. Như vậy ở hình (b), (c) không có hai tia đối nhau được. Ví dụ 3: Vẽ hai tia trùng nhau OA và Ox O A x O A B C x (a) (b) Ở hình (a) vẽ hai tia Ox, Ax tuy có nhiều điểm chung chúng không trùng nhau, chúng là hai tia phân biệt. Có thể hiểu các tia trùng nhau theo phương diện 5
- khác, đó là các khả năng đặt tên khác nhau cho cùng một tia (ở hình b) tia Ox còn được gọi là tia OA, tia OB, OC. Ví dụ 4: Để vẽ ba điểm thẳng hàng, trước hết ta dùng thước vẽ một đường thẳng rồi lấy ba điểm thuộc đường thẳng ấy, để vẽ ba điểm không thẳng hàng ta chỉ cần vẽ một đường thẳng rồi lấy hai điểm thuộc đường thẳng và một điểm không thuộc đường thẳng ấy. A B C A C B Khi phát biểu điểm C nằm giữa hai điểm A, B. Giáo viên dùng phấn màu tô đậm điểm C để học sinh nhận biết rõ hơn. Khi dạy hình học, giáo viên cần lưu ý cho học sinh từng thao tác vẽ hình sao cho chính xác, cẩn thận, tránh những thao tác vẽ ẩu, vẽ sai hình. Khi dạy ba điểm thẳng hàng, xét đến điểm nằm giữa hai điểm, ta có thể mô tả vị trí tương đối của chúng nhờ các thuật ngữ "nằm cùng phía", "nằm khác phía", "nằm giữa" để học sinh tiếp nhận một cách dễ dàng và khi nhận xét ba điểm thẳng hàng, cần chú ý nhận xét tính chất ba điểm thẳng hàng: Có một và chỉ có một điểm nằm giữa hai điểm còn lại, không có khái niệm " điểm nằm giữa" khi “ba điểm không thẳng hàng". Để khắc sâu điểm "điểm nằm giữa" giáo viên cần có bảng phụ thể hiện các hình vẽ khác nhau sau, không thể nói điểm nào nằm giữa hai điểm còn lại. Khi dạy bài đường thẳng đi qua hai điểm giáo viên cần chú ý cho học sinh cách vẽ đường thẳng, cách đặt tên cho đường thẳng. Khi học về tia, học sinh đã được học đường thẳng điểm thuộc đường thẳng, một cách tự nhiên là từ nhận xét: "Điểm O trên đường thẳng chia đường thẳng thành hai phần đường thẳng riêng biệt" từ đó giới thiệu khái niệm tia bằng mô tả trực quan "Một phần đường thẳng bị chia ra bởi điểm O và tất cả các điểm cùng phía với điểm O được gọi là một tia gốc O". Nhấn mạnh nhóm từ "Tia gốc 6
- O" để khêu gợi trí tưởng tượng là tia được giới hạn về phía gốc và không giới hạn về phía kia. O x Việc diễn tả "phần đường thẳng riêng biệt" bằng ngôn ngữ toán học làm rõ dần về sau qua bài tập. x A B y Sau khi giới thiệu cho học sinh khái niệm "hai tia đối nhau", cần cho học sinh củng cố, đưa ra tình huống: Có hai điểm A, B trên đường thẳng xy, xét xem có mấy tia được thành lập, hãy đọc tên các tia đối nhau. Đây là hoạt động nhận dạng khái niệm, nhằm khắc sâu kiến thức về tia và hai tia đối nhau, hai tia đối nhau phải thoả mãn hai điều kiện: Chung gốc và cùng tạo thành một đường thẳng. Nhấn mạnh: Nếu vi phạm một trong hai điều kiện trên thì không phải là hai tia đối nhau. Khi dạy về "Trung điểm của đoạn thẳng" bằng quan sát trực quan về trung điểm của đoạn thẳng, ta có thể diễn tả trung điểm của đoạn thẳng AB bằng các cách khác nhau: A M B Cách 1: M là trung điểm của đoạn thẳng AB. Cách 2: Nếu MA+ MB = AB và MA = MB thì M là trung điểm của đoạn thẳng AB. AB Cách 3: Nếu MA MB thì M là trung điểm của đoạn thẳng AB. 2 3. Rèn kỹ năng thực hành: Đối với hình học lớp 6, về kỹ năng thực hành của học sinh cũng rất là quan trọng, qua lý thuyết, giáo viên có thể lồng ghép yêu cầu học sinh thực hành để một lần nữa khẳng định kiến thức vừa lĩnh hội một cách chắc chắn. Chẳng hạn sau khi học về đường thẳng, giáo viên có thể yêu cầu học sinh thực hành 7
- ngay tại lớp thông qua bài tập trong sách giáo khoa. Yêu cầu mỗi học sinh gấp giấy để có hình ảnh đường thẳng hoặc là khi dạy "Trung điểm của đoạn thẳng", giáo viên yêu cầu học sinh dùng sợi dây, hai mút của đoạn thẳng là hai đầu sợi dây. Yêu cầu học sinh xác định trung điểm của đoạn thẳng sợi dây đó như thế nào? Hoặc cách vẽ trung điểm M của đoạn thẳng AB được nêu dưới dạng bài tập, yêu cầu học sinh giải bằng hai cách: AB Cách 1: Vẽ điểm M trên tia AB sao cho AM 2 Cách 2: Gấp giấy. Như vậy học sinh sẽ thông qua thực hành đề phát hiện được tính chất của trung AB điểm:M là trung điểm của AB: MA MB 2 4. Rèn kỹ năng suy luận chặt chẽ: Đối với hình học 6, tính chất nổi bật là trực quan, đây là giai đoạn xây dựng cơ sở ban đầu của hình học phẳng chuẩn bị cho việc chứng minh suy diễn trong các chương trình sau: Học sinh học tập hình học thông qua các hoạt động hình học: Kết hợp hoạt động trực quan (quan sát, phát hiện, gấp hình, đo, vẽ, kiểm tra, thực hành) là chủ yếu, rồi tới hoạt động suy luận (quy nạp, suy diễn). Ví dụ 1: B Gọi M là một điểm của đoạn thẳng HK. Biết HM = 4 cm, HK = 8cm. So sánh hai đoạn thẳng HM và MK. Học sinh có thể lập luận như sau: Vì M là thuộc đoạn thẳng HM nên: HM + MK = HK thay MH = 4cm, HK = 8cm ta có: 4 + MK = 8. => MK = 8 - 4 = 4cm. Hai đoạn thẳng MK và HM có độ dài bằng nhau nên HM = MK. Ví dụ 2: Gọi M và N là hai điểm nằm giữa 2 mút của đoạn thẳng AB. Biết rằng AN = BM. So sánh AM và BN. Xét cả hai trường hợp. A N M B A M N B (a) (b) 8
- Hình a: Vì N nằm giữa A và M nên: AM = AN + NM. Vì M nằm giữa N và B nên: NM + MB = NB. Theo giả thiết AN = BM, lại vì NM = MN nên suy ra AM = BN. Hình b: Vì M nằm giữa A và N nên: AM + MN = AN. Vì N nằm giữa B và M nên: BN + NM = BM. Theo giả thiết thì AN = BM nên suy ra: AM + MN = BN + MN. Khi học xong bài "Vẽ đoạn thẳng cho biết độ dài", qua bài tập, học sinh bước đầu biết suy luận chặt chẽ. Ví dụ 3: Trên tia Ox vẽ ba đoạn thẳng OA, OB, OC sao cho OA = 2cm, OB = 5cm, OC = 8cm. So sánh BC và BA. O A B C x Vì A, B thuộc tia Ox, OA < OB nên điểm A nằm giữa O và B. Ta có: OA + AB = OB. Hay 2 + AB = 5 => AB = 3cm. Vì B, C thuộc tia Ox, OB < OC nên điểm B nằm giữa O và C. Ta có OB + BC = OC Hay 5 + BC = 8 => BC = 8 - 5 = 3cm. Hai đoạn thẳng BA và BC có cùng độ dài là 3 cm nên chúng bằng nhau. Ví dụ 4: Trên tia Ox cho ba điểm M, N, P biết OM = 2cm, ON = 3cm, OP = 3,5cm. Hỏi trong ba điểm M, N, P thì điểm nào nằm giữa hai điểm còn lại? Vì sao?. Khi cho học sinh làm giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập luận một cách chặt chẽ như sau: O M N P x Trên tia Ox có OM < ON (Vì 2 cm < 3 cm) nên M nằm giữa O và N, nên MN = ON - OM = 3 - 2 = 1 (cm). Vì OM < OP (Vì 2 cm < 3,5cm) nên M nằm giữa O và P suy ra: MP = OP - OM = 3,5 - 2 = 1,5 (cm). 9
- Trên tia Mx có: MN < MP (vì 1cm < 1,5 cm) nên N nằm giữa hai điểm M và P. Khi học về trung điểm của đoạn thẳng, học sinh nắm được: M là trung AM MB AB điểm của đoạn thẳng AB AM MB Nói tóm lại khi dạy những phần này, giáo viên cần phải hướng dẫn cho học sinh cách trình bày một bài tập hình học, biết cách lập luận chặt chẽ, lô gíc dựa trên nền tảng kiến thức các em lĩnh hội được. 5. Giải một số bài toán nâng cao: Do đặc thù của nhà trường, học sinh đa phần là con em nông dân điều kiện kinh tế khó khăn, việc nhận thức của các em còn chưa được mở rộng, một số em cần được nâng cao hơn về kiến thức để làm hạt nhân cho phong trào mũi nhọn sau này điều đó làm cho bản thân tôi có phần nào trăn trở, chính vì vậy khi giảng dạy tôi cũng cố gắng lồng ghép những bài toán khó, những bài toán nâng cao vào giờ dạy để các em được mở rộng kiến thức nhiều hơn. Ví dụ 1: Trên đường thẳng xy cho ba điểm A, B, C theo thứ tự đó. a. Liệt kê tất cả các tia được xác định trên đường thẳng đó. b. Liệt kê tất cả các cặp tia đối nhau. c. Liệt kê tất cả các tia có gốc A trùng nhau. Giải: x A B C y a. Ax, Ay, Bx, By, Cx, Cy. b. Ax và Ay, Bx và By, Cx và Cy là các cặp tia đối nhau. c. AB, AC, Ay là các tia trùng nhau. Ví dụ 2: Cho bốn điểm A, B, C, D theo thứ tự đó nằm trên một đường thẳng. Cho biết AB = 6cm, BC = 10cm, CD = 6cm. a. Chứng tỏ rằng AC = BD. b. Chứng tỏ rằng trung điểm của đoạn thẳng AD trùng với trung điểm của BC. 10
- Giải: A B C D a. Theo thứ tự A, B, C, D nên B nằm giữa A và C, do đó ta có: AC = AB + BC = AB + CB = DC + CB = BD. b. Ta có: AD = AB + BC + CD = 6 + 10 + 6 = 22 (cm). AD Gọi I là trung điểm của AD thì: AI ID 11cm 2 BC Gọi K là trung điểm của BC thì: BK KC 5cm 2 Ta có: AK = AB + BK = 6 + 5 = 11 (cm). Vì AK = AI (K, I nằm giữa A và D) nên I và K trùng nhau. III.1.4 Các bước thực hiện - Bước 1: Nghiên cứu bài làm cũng như kết quả qua khảo sát chất lượng đầu năm. - Bước 2: Đưa ra biện pháp rèn kỹ năng giải toán về đoạn thẳng trong hình học lớp 6 qua kết quả khảo sát giữa học kì áp dụng cho lớp 6C,6A - Bước 3: So sánh kết quả 2 lớp 6A và 6C III.1.5 Điều kiện áp dụng: Giáo viên cần cung cấp cho học sinh các kiến thức cơ bản và củng cố lại các kiến thức về điểm, đường thẳng, tia. Học sinh cần nắm vững các kiến thức hình học cơ bản III. 2. Tính mới ,tính sáng tạo - Sắp xếp bài toán theo các mức độ từ dễ đến khó, những dạng toán cơ bản. - Xây dựng các phương pháp giải cơ bản Đối với học sinh yếu, kém: Củng cố kiến thức cơ bản + Phương pháp khắc hục những sai lầm thường gặp của học sinh Đối với học sinh đại trà: Vận dụng và phát triển kỹ năng + Phối hợp nhiều phương pháp (các phương pháp trên) - Chữa các sai lầm thường gặp của học sinh trong quá trình làm bài. - Củng cố các kiến thức cơ bản và hoàn thiện các kĩ năng thực hành. 11
- - Tìm tòi những cách giải hay, khai thác bài toán. Đối với học sinh khá, giỏi: Phát triển tư duy + Giải các bài toán nâng cao II.3. Phạm vi ảnh hưởng,khả năng áp dụng của sáng kiến: Để thực hiện tốt kĩ năng giải toán giải toán về đoạn thẳng, giáo viên cần cung cấp cho học sinh các kiến thức cơ bản sau: Củng cố lại các kiến thức về hình học như đểm, đường thẳng, đoạn thẳng, tia Khi gặp bài toán , học sinh cần nhận xét: Quan sát đặc điểm của bài toán: Nhận dạng bài toán: Xét xem bài toán đã cho thuộc dạng nào?áp dụng phương pháp nào trước, phương pháp nào sau Chọn lựa phương pháp giải thích hợp: Từ những cơ sở trên mà ta chọn lựa phương pháp cho phù hợp với bài toán .Với sáng kiến kinh nghiệm này, phạm vi áp dụng rộng rãi trong chương trình hình học lớp 6 cho các năm học sau, cho tất cả các trường cùng loại hình đạt hiệu quả cao. II.4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp Kết quả áp dụng kĩ năng này đã góp phần nâng cao chất lượng học tập của bộ môn đối với học sinh đại trà. Cụ thể kết quả kiểm tra thông kê qua các giai đoạn ở hai lớp 6A,6C năm học 2022– 2023 như sau: + Chưa áp dụng giải pháp Lớp Tổng Điểm 9-10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm 3 - 4 Điểm < 3 số HS SL % SL % SL % SL % SL % 6A 40 5 12,5 15 37,5 14 35 6 15 6C 35 0 0 5 14 20 57 10 29 0 * Nhận xét: Đa số học sinh chưa nắm được kỹ năng phân tích bài toán, chưa phân biệt được tia,đường thẳng, đoạn thẳng. b) Áp dụng giải pháp 12
- Tính đến ngày 30/3/2023, chất lượng bộ môn Toán phần Hình học của hai lớp 6A, 6C như sau: Lớp Tổng Điểm 9-10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm 3 - 4 Điểm < 3 số HS SL % SL % SL % SL % SL % 6A 40 15 37,5 15 37,5 10 25 0 0 6C 35 5 14 10 29 20 27 0 56 0 * Nhận xét: - Học sinh tích cực tìm hiểu kĩ phương pháp giải, phân loại từng dạng toán, chủ động lĩnh hội kiến thức, có kĩ năng giải nhanh các bài toán có dạng tương tự, đặt ra nhiều vấn đề mới, nhiều bài toán mới. PHẦN IV: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Từ việc nghiên cứu Sách giáo khoa, Sách bài tập Toán 6 phần hình học . Tôi thấy đây là giai đoạn xây dựng cơ sở ban đầu của hình học phẳng, chính vì vậy bản thân người thầy phải nghiên cứu, tìm tòi, sử dụng phương pháp, để giúp các em có một nền móng vững vàng, làm nền tảng cho việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức hình học của những lớp sau này, bước đầu giúp các em hứng thú học bộ môn hình học hơn nữa. Sáng kiến này, phần nào giúp các em mở rộng kiến thức hơn, bồi dưỡng và tìm ra được những học sinh có năng khiếu học môn toán. Tôi thiết nghĩ với sáng kiến này mới chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ. Song mỗi người một kinh nghiệm nhỏ thì cả một tập thể giáo viên sẽ có một sáng kiến lớn, nếu được áp dụng triệt để thì chắc chắn kết quả giảng dạy sẽ được nâng lên rất nhiều. 2. Kiến nghị, đề xuất: Để sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng một cách rộng rãi và có hiệu quả, tôi mong các cấp quản lý giáo dục tạo điều kiện tổ chức nhiều hơn nữa những chuyên đề về giảng dạy bộ môn toán để giáo viên được trao đổi, học hỏi kinh nghiệm trau dồi chuyên môn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! 13
- Tiên Thắng, ngày 16 tháng 2 năm 2024 Người viết sáng kiến Ngô Thu Hà 14

