SKKN Các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động giáo dục và hoạt động trải nghiệm cho trẻ lớp mẫu giáo 4- 5 tuổi A trường Mầm non Tràng Đà, thành phố Tuyên Quang

doc 28 trang Thành Trung 12/06/2025 240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động giáo dục và hoạt động trải nghiệm cho trẻ lớp mẫu giáo 4- 5 tuổi A trường Mầm non Tràng Đà, thành phố Tuyên Quang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_cac_bien_phap_giao_duc_ky_nang_song_cho_tre_thong_qua_h.doc

Nội dung text: SKKN Các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động giáo dục và hoạt động trải nghiệm cho trẻ lớp mẫu giáo 4- 5 tuổi A trường Mầm non Tràng Đà, thành phố Tuyên Quang

  1. 1 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc BÁO CÁO Đề nghị xét, công nhận hiệu quả áp dụng, khả năng nhân rộng của sáng kiến I- THÔNG TIN CHUNG 1. Tên sáng kiến: Các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động giáo dục và hoạt động trải nghiệm cho trẻ lớp mẫu giáo 4- 5 tuổi A trường mầm non Tràng Đà, thành phố Tuyên Quang. 2. Đề nghị công nhận hiệu quả áp dụng, khả năng nhân rộng: Trong thành phố Tuyên Quang. 3. Tác giả sáng kiến Tỷ lệ (%) Ngày Nơi công Trình độ đóng góp Số Chức Họ và tên tháng tác chuyên vào việc TT danh năm sinh môn tạo ra sáng kiến Giáo viên Cao đẳng Trường MN 1 Phạm Duy Thủy 03/02/1982 mầm non sư phạm 100% Tràng Đà hạng III MN 4. Nội dung, bản chất của sáng kiến. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là điều rất cần thiết để giúp trẻ khám phá thế giới tâm hồn mình một cách có định hướng, khiến trẻ biết quý trọng bản thân, nuôi dưỡng những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực: Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ, tinh thần, từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng sống hòa nhập với thế giới xung quanh. Ở mỗi lứa tuổi thì trẻ cần có những sự tác động khác nhau đến kỹ năng sống của trẻ. Chăm sóc và giáo dục trẻ từ lứa tuổi mầm non chính
  2. 2 là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện về cả thể chất lẫn tinh thần, là nền tảng giúp cho quá trình học tập lâu dài của trẻ sau này. Chính vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động giáo dục trong trường mầm non cũng là một nội dung không những cần mà còn rất quan trọng đối với trẻ lứa tuổi mầm non. Qua đó trẻ có điều kiện trao đổi kinh nghiệm, thực hành và áp dụng nội dung, phương pháp kỹ năng sống. Trẻ phải được thảo luận theo nhóm, theo cặp, được đóng vai, tranh luận và phân tích tình huống, trẻ biết thích nghi, thể hiện cảm xúc, có khả năng hòa nhập, tự giải quyết vấn đề một cách tự lập. Đó chính là tiền đề gieo mầm hạt giống nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Trong thực tế tại trường mầm non nói chung, trường tôi nói riêng, việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ chưa được chú trọng tới như: Kỹ năng phòng tránh các đồ dùng nguy hiểm, kỹ năng không đi theo người lạ và kỹ năng tự phục vụ bản thân, một số kỹ năng, ứng xử, giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng thích nghi, kỹ năng chia sẻ.... chưa được khắc sâu, nên trẻ lớp tôi hoàn toàn chưa có những kỹ năng cơ bản ấy. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để có một phương pháp truyền đạt đến trẻ những kỹ năng sống tốt nhất? và dạy dưới hình thức nào? Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu, nhận thức được sâu sắc, ý nghĩa vai trò quan trọng của các kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ. Tuy nhiên việc giáo dục kỹ năng sống chưa trở thành một môn học với một giáo trình chuẩn, được áp dụng trong nhà trường, chỉ là nội dung lồng ghép để giáo dục trẻ thực hiện kỹ năng sống. Vì vậy tôi đã chọn sáng kiến: “Các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động giáo dục và hoạt động trải nghiệm cho trẻ lớp mẫu giáo 4 - 5 tuổi A trường mầm non Tràng Đà, thành phố Tuyên Quang” và thực hiện các hoạt động để thực hiện sáng kiến: + Xây dựng kế hoạch nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ: Tôi đã bám sát vào kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học của nhà trường, kế hoạch chương trình 35 tuần, chương trình giáo dục mầm non, lựa chọn nội dung giáo dục kỹ
  3. 3 năng sống cho trẻ, tổ chức lồng ghép vào các hoạt động giáo dục và hoạt động trải nghiệm cho trẻ tại lớp mẫu giáo 4 - 5 tuổi A, lớp tôi chủ nhiệm. + Tìm hiểu đặc điểm tâm, sinh lý của từng trẻ: Để chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ được nâng cao tôi đã tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ trong lớp để có biện pháp, nội dung giáo dục phù hợp. + Khảo sát chất lượng học sinh đầu năm học 2023-2024 Bảng 1: Kết quả khảo sát chất lượng tháng 9/2023 Tổng Trung Tốt Khá Yếu Nội dung số bình cháu SL % SL % SL % SL % Trẻ mạnh dạn trong giao tiếp, tự 6 24 7 28 9 36 3 12 tin thể hiện mình. Trẻ biết nhường nhịn, chia sẻ, hợp 25 6 24 6 24 10 40 3 12 tác giúp đỡ bạn. Trẻ biết cất dọn, sắp xếp đồ dùng đồ 7 28 8 32 8 32 2 8 chơi đúng nơi quy định. Trẻ biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ 8 32 9 36 5 20 3 12 sinh môi trường. + Khảo sát điều kiện thực trạng * Thuận lợi Đối với Ban giám hiệu Nhà trường có các nhóm lớp được xây kiên cố và có đầy đủ, các phòng chức năng, lớp học rộng, thoáng, có đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các hoạt động ngoài trời
  4. 4 Ban giám hiệu luôn tạo điều kiện cho giáo viên đi tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nâng cao năng lực tổ chức các hoạt động. Đối với giáo viên Có 40% giáo viên đạt trình độ chuẩn và 60 % đạt trình độ trên chuẩn, có kinh nghiệm trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ. - Chế độ chính sách cho giáo viên mầm non đã được nhà nước quan tâm, giúp giáo viên có nhiều động lực, nhiệt huyết, yêu nghề tận tụy với nghề. Đối với phụ huynh. Phụ huynh học sinh quan tâm đến công tác nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ, hiểu và thường xuyên chia sẻ các hoạt động của lớp. Đối với trẻ. Có 100% trẻ được bán trú tại trường, nên việc nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ được liên tục trong ngày. Sĩ số trẻ trong nhóm hợp lý, cho nên việc nuôi dưỡng, chăm sóc và tổ chức các hoạt động giáo dục phong phú, đa dạng. *Khó khăn Về phía bản thân và giáo viên cùng lớp, cùng trường Bản thân tôi là thầy giáo, là thầy giáo duy nhất của trường, nên việc rèn kỹ năng sống cho trẻ đôi lúc chưa khéo léo, còn khó khăn trong việc dạy trẻ lĩnh hội những tình huống khó, cần sự tỉ mỉ, ân cần. Giáo viên còn phụ thuộc nhiều vào tài liệu chỉ chú trọng dạy các môn học mà chưa chú ý đến việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ hàng ngày. Còn ngại trong việc tổ chức các hoạt động tập thể, trò chơi nhằm hình thành rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ. Về phía phụ huynh. Một số gia đình còn nuông chiều con thái quá, luôn sẵn sàng phục vụ trẻ nên con có thái độ ngang bướng, ỷ lại, hay làm nũng bố mẹ. Một số phụ huynh cho rằng cứ lo cho con đầy đủ, chiều chuộng theo ý thích của con, còn việc dạy dỗ thì phó mặc cho giáo viên.
  5. 5 Mặc dù rất quan tâm đến con nhưng phụ huynh đều đi làm, lo cho kinh tế gia đình, nên ít có thời gian dành cho con, phần lớn đều nhờ cậy ông bà...,vì vậy việc thống nhất quan điểm, biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ giữa giáo viên và phụ huynh còn gặp nhiều khó khăn. Về phía trẻ. Có trẻ tăng động, tự kỉ trong lớp, nhiều trẻ mới đi lớp chưa có nề nếp. Trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống phát triển hiện đại như: Internet, tivi, các trò chơi điện tử Trẻ được sống trong môi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm, không có tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh. Sau khi đã có kết quả về thực trang của sáng kiến, tôi tìm hiểu các phương pháp sẽ áp dụng cho sáng kiến: + Tìm hiểu các phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận Các loại tài liệu về lĩnh vực phát triển thể chất và các trò chơi vận động. Chương trình giáo dục mầm non ( Đã chỉnh sửa) - Phương pháp lý luận: Nghiên cứu, đọc tài liệu. - Phương pháp thực tiễn: Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu Phương pháp thống kê, so sánh. Dựa vào mục tiêu giáo dục mầm non nói chung và yêu cầu cần đạt của lứa tuổi trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi. Tôi đã đưa ra một số giải pháp để thực hiện sáng kiến của mình: *Biện pháp 1:Nâng cao ý thức tự học, tự bồi dưỡng, tổ chức hoạt động kỹ năng sống cho trẻ Là một thầy giáo dạy lớp 4-5 tuổi A, tôi không ngừng học hỏi, tự bồi dưỡng bản thân, để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng thực hiện nhiệm vụ của mình. Đặc biệt tôi đi sâu vào nghiên cứu những kỹ năng sống cơ bản dạy trẻ 4 -5 tuổi ở trường mầm non, nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý lứa
  6. 6 tuổi 4-5 tuổi bằng nhiều hình thức: Tự học qua sách báo, tạp chí, học hỏi bạn bè đồng nghiệp, khai thác qua trang mạng, các phần mềm Trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi, có đặc điểm tâm lý tính cách riêng, nên để thấu hiểu và tiếp cận với trẻ tôi đã dành nhiều thời gian đọc các tài liệu về tâm lý học trẻ em, đặc biệt là tâm lý lứa tuổi của nhà xuất bản đại học sư phạm, và tìm hiểu nhiều nguồn tư liệu trên các kênh giáo dục khác, trên mạng Internet. Để thiết kế các bài dạy, các hoạt động sinh động hiệu quả tôi đã tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn do Sở, Phòng Giáo dục-Đào tạo và trường, tổ chuyên môn tổ chức. Thông qua việc tự học tự bồi dưỡng tôi hiểu rằng: Để dạy trẻ các kỹ năng thì thầy, cô giáo luôn luôn lắng nghe và thấu hiểu trẻ, giáo viên cần: Tạo cơ hội cho trẻ chia sẻ đồ chơi hay món ăn mà trẻ ưa thích với bạn bè. Lắng nghe trẻ, giúp chúng bày tỏ thái độ. Dạy trẻ cách giải quyết vấn đề. Tôn trọng đồ đạc của trẻ. Dạy trẻ ở mọi lúc mọi lúc mọi nơi, tận dụng mọi tình huống và hoạt động có thể tích hợp. *Biện pháp 2: Xác định, xây dựng nội dung, kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ lứa tuổi mẫu giáo 4-5 tuổi. + Xác định nội dung, kỹ năng sống cơ bản Để xác định được những nội dung giáo dục kỹ năng sống cơ bản , trước hết chúng ta cần phải hiểu được kỹ năng sống là gì? mục đích của việc dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non? Kỹ năng sống là những kỹ năng cần có cho hành vi lành mạnh, cho phép bạn đối mặt với những thách thức của cuộc sống hàng ngày. Mục đích của việc dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm. Từ đây, chúng ta xác định được những nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi bao gồm: Sự hợp tác, tự kiểm tra, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Học cách có được những mối liên kết mật thiết với các bạn khác trong
  7. 7 lớp, biết chia sẻ, chăm sóc, lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình trong nhóm bạn. Giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Biết giới thiệu về bản thân và gia đình mình trước đám đông, biết mình đang học lớp nào? Thầy cô giáo nào? Thích cái gì? Địa chỉ nhà mình ở đâu? Nhận biết được các ưu điểm cũng như khuyết điểm của bản thân mình Biết cách ứng xử với mọi người xung quanh. Học cách lắng nghe mọi người và đối đáp. Nhận biết được hoàn cảnh không an toàn, cách giữ an toàn cho mình nơi công cộng (sân trường, công viên, siêu thị....) + Kỹ năng giao tiếp tự tin Một trong những kỹ năng đầu tiên, giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. + Kỹ năng hợp tác Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát, hay tổ chức một buổi trải nghiệm, giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. + Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được. + Kỹ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác
  8. 8 như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẵn sàng học mọi thứ. Ngoài ra, ở trường mần non giáo viên cần dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. Không làm ảnh hưởng đến người xung quanh. + Xây dựng nội dung các tiêu chí giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp tôi lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ. Qua đó tôi đã xây dựng nội dung tiêu chí giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động cụ thể: Thứ tự Nội dung kỹ năng sống 1 Kỹ năng giao tiếp 2 Kỹ năng thích nghi 3 Kỹ năng tự phục vụ và biết giúp đỡ người thân 4 Kỹ năng nhận thức 5 Kỹ năng vận động 6 Kỹ năng tự giải quyết vấn đề 7 Kỹ năng hợp tác, hoạt động cùng nhóm.
  9. 9 8 Kỹ năng tự kiểm soát cảm xúc và tạo niềm vui 9 Kỹ năng và tự bảo vệ 10 Kỹ năng giữ gìn đồ dùng trong sinh hoạt hàng ngày 11 Kỹ năng chăm sóc, bảo vệ động vật nuôi, cây trồng 12 Kỹ năng giữ gìn về sinh môi trường * Biện pháp 3: Dạy trẻ các kỹ năng sống vào các hoạt động hàng ngày và hoạt động trải nghiệm. + Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động học và hoạt động trải nghiệm. Trẻ ở lứa tuổi này, học mà chơi, chơi mà học, trẻ dễ nhớ nhưng cũng rất nhanh quên, nên việc lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào hoạt động học và tổ chức thông qua hoạt động trải nghiệm có nhiều ưu thế nhằm hình thành cho trẻ những thói quen, hành vi có văn hoá. Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực: Thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau. Thông qua hoạt động học, trẻ có cơ hội chia sẻ với các bạn thông qua hoạt động nhóm. Mặt khác, trẻ cũng tự tin, mạnh dạn khi thể hiện khả năng của mình cũng như giới thiệu về bản thân, gia đình mình .... trước thầy cô giáo và các bạn trong lớp.
  10. 10 Ví dụ: Hoạt động khám phá: Các con vật sống trong rừng Khi thầy đưa ra bộ tranh về con voi và yêu cầu 1 nhóm tìm hiểu con voi qua bộ tranh, ngay lập tức trẻ đã biết ngồi gần nhau hơn và cùng nhau xem tranh rồi trao đổi với nhau về những gì mình thấy trong bức tranh được xem. Như vậy ta thấy, trẻ đã biết cách hoạt động nhóm, có tinh thần hợp tác với nhau và cùng nhau chia sẻ những cảm nhận về con voi thông qua bộ tranh đó. Cũng với tiết học này, khi thầy yêu cầu trẻ của 1 nhóm khác quan sát con voi thông qua xem video clip. Sau khi xem xong trẻ đã gắn được lô tô những đặc điểm đặc trưng của con voi và cử 1 bạn lên trình bày. Qua đây, chúng ta thấy chỉ qua 1 hoạt động khám phá con voi, nhưng chúng ta thấy trẻ vừa được hoạt động nhóm, vừa có thể lên thuyết trình trước cả lớp. Khi tổ chức tiết học này, tôi yêu cầu từng trẻ tự lên giới thiệu về tên, tuổi, giới tính, học lớp nào, trường nào, thầy cô giáo nào, sở thích của mình. Tôi nhận thấy, trẻ rất hào hứng lên giới thiệu. Những trẻ mạnh dạn đã nói được đầy đủ những thông tin tôi đưa ra. Nhưng đáng mừng hơn là có những trẻ rất nhút nhát, thiếu tự tin nhưng cũng vẫn có thể đứng dậy và giới thiệu được 1 vài thông tin của mình. Điều đó chứng tỏ rằng, nếu như chúng ta không gọi đến những trẻ nhút nhát thì có lẽ những trẻ đó sẽ chẳng bao giờ dám làm một việc gì trước đám đông cả, và sẽ chẳng bao giờ trẻ tự tin lên được. + Hoạt động khám phá: Gia đình của bé. Trước khi thực hiện tiết học này, tôi đã nhờ phụ huynh ủng hộ những bức ảnh chụp cả gia đình mình. Khi vào tiết học, tôi cho cả lớp xem tất cả những bức ảnh đó -> trẻ rất hào hứng, phấn khởi khi những bức ảnh của nhà mình được cô giáo đưa ra trưng bày. Sau đó tôi cho trẻ kể về gia đình minh bằng những bức hình đó.Tôi nhận thấy những trẻ lên kể rất vui vẻ, rất tự hào khi kể cho cô giáo và các bạn nghe về những thành viên trong gia đình mình, và kỷ niệm gắn với bức ảnh đó. Ví dụ: Với chủ đề nhánh sự kiện về giao thông Với tiết khám phá tôi cung cấp cho trẻ các kiến thức về an toàn giao thông,