Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học Trường Thành, Thành phố Tuyên Quang

doc 13 trang Thành Trung 13/06/2025 280
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học Trường Thành, Thành phố Tuyên Quang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ky_nang_giao_tiep.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học Trường Thành, Thành phố Tuyên Quang

  1. TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯỜNG THÀNH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BIỆN PHÁP “Một số biện pháp rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học Trường Thành, thành phố Tuyên Quang” I. Sơ yếu lý lịch: Họ và tên: NGUYỄN THỊ LAN Ngày tháng năm sinh: 30/9/1976 Trình độ chuyên môn: Đại học Tiểu học Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Trường Thành Nhiệm vụ được giao: Giáo viên chủ nhiệm lớp 3C 1. Lí do chọn biện pháp Trường học không chỉ là môi trường giáo dục, giúp học sinh nâng cao kiến thức mà còn cần phải tạo điều kiện cho trẻ nhỏ phát triển các kỹ năng giao tiếp để thích nghi tốt hơn với cuộc sống ngoài xã hội trong tương lai. Vì vậy để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp giúp cho học sinh biết nói đủ câu khi trả lời các câu hỏi học tập, khi trò chuyện với bạn cùng lớp với thầy cô giáo, biết xử lý tình huống, tự tin trao đổi với bạn, tích cực tham gia vào các hoạt động của lớp của trường, tôi khẳng định rằng rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp 2 ở Tiểu học là cực kì quan trọng, là nhân tố số một quyết định chất lượng giáo dục toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng sống cơ bản cho học sinh. Rèn kỹ năng giao tiếp là người giáo viên phải rèn cho học sinh kỹ năng về ngôn ngữ nghe, nói, đọc, viết nhằm giúp học sinh sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt có hiệu quả trong suy nghĩ và trong giao tiếp. Ngôn ngữ giao tiếp là cầu nối giữa ba môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội. Hiện nay, vì nhiều lý do xuất phát từ gia đình và xã hội nên có rất nhiều học sinh tiểu học vẫn còn hạn chế trong vấn đề ứng xử, giao tiếp với người khác còn nhút nhát, một số em còn có sự nuông chiều của gia đình, được gia đình phục vụ đáp ứng mọi yêu cầu chỉ biết học nên việc giao tiếp còn hạn chế. Vì sự mưu sinh 1
  2. của gia đình không ít cha mẹ học sinh đã giao phó việc giáo dục con cái cho nhà trường, ít quan tâm đến con em mình nên kỹ năng giao tiếp chưa phát triển đúng theo độ tuổi, lời nói của các em nói chưa đủ câu, sử dụng từ chưa phù hợp trong giao tiếp, trong học tập cũng như trong cuộc sống. Đó cũng là băn khoăn, suy nghĩ của bản thân tôi làm thế nào để rèn các em học sinh tự tin, mạnh dạn và giao tiếp hiệu quả hơn. Chính vì lẽ đó tôi chọn giải pháp “Một số biện pháp rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học Trường Thành, thành phố Tuyên Quang” để góp phần giúp cho các em có một số kỹ năng trong giao tiếp. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng biện pháp Năm học 2022 - 2023 tôi được phân công giảng dạy lớp 2B. Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát kĩ năng giao tiếp của các em nhưng kết quả khảo sát chưa cao. * Tổng số HS: 34 em, trong đó: Nữ 20 em, Nam 14 em Kết quả khảo sát kĩ năng giao tiếp của HS lớp 2B TSHS Được Nhóm Trước khi thực hiện biện pháp khảo sát Nhóm 1: Giao tiếp khá tốt, tự tin, có lời nói lưu loát, diễn đạt trôi chảy, biết thể 6 hiện lời nói biểu cảm trong giao tiếp. 17,6% Nhóm 2: Diễn đạt lời nói tương đối lưu loát, 34 trôi chảy nhưng thiếu tự tin trong giao tiếp. 15 44,1% Nhóm 3: Nhút nhát, ngại giao tiếp, diễn 13 38,3% đạt lời nói chưa rõ ý Nhìn vào bảng khảo sát đầu năm cho ta thấy các em học sinh kĩ năng giao tiếp chưa cao. Học sinh chỉ học kiến thức, khả năng giao tiếp trong cuộc sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều. Một số em hay lảng tránh khi tham gia các hoạt động tập thể. Kỹ năng giao tiếp hạn chế. Một bộ phận giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa nên 2
  3. chưa chịu khó tìm tòi các hình thức và phương pháp tổ chức cho các hoạt động này. Do đó, chưa thu hút được hứng thú của học sinh. Một số ít phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con học kiến thức mà quên hướng cho con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách giao tiếp ứng xử trong gia đình. 3. Nội dung biện pháp đã thực hiện 3.1. Phân loại khả năng giao tiếp của học sinh và giữ mối liên hệ chặt chẽ với cha mẹ học sinh. 3.1.1. Phân loại khả năng giao tiếp của học sinh. Ngay từ đầu năm học, nhà trường chỉ đạo cho giáo viên các khối lớp bàn giao công tác chủ nhiệm, tôi đã liên hệ với giáo viên chủ nhiệm cũ hỏi cặn kẽ về từng học sinh, tìm hiểu hoàn cảnh, sở thích và cá tính của từng em nhờ thế tôi nắm được tình hình chất lượng và các mặt hoạt động khác của từng học sinh trong lớp. Do đó, tôi đã mạnh dạn phân loại học sinh theo các nhóm sau: Nhóm 1: Học sinh giao tiếp khá tốt, có lời nói lưu loát, diễn đạt trôi chảy, biết thể hiện lời nói biểu cảm trong giao tiếp. Ở nhóm này, phần lớn là các em học sinh tiếp thu bài học khá tốt, nắm vững các kiến thức, kĩ năng các môn học. Trong các phong trào của trường, lớp như văn nghệ, hoạt động tập thể, thể dục, thể thao,... các em đều tự tin, chủ động và tích cực tham gia, cũng chính từ việc tham gia nhiều hoạt động như vậy, đã giúp các em trở nên mạnh dạn, năng động hơn, tự tin thể hiện ý kiến của mình trước đám đông. Nhóm 2: Học sinh có lời nói tương đối lưu loát, trôi chảy nhưng thiếu tự tin trong giao tiếp. Các em học sinh ở nhóm này có khả năng tiếp thu kiến thức khá tốt. Khả năng diễn đạt của các em cũng khá rõ ràng, mạch lạc. Qua quan sát, tôi nhận thấy mặc dù các em thường rất thoải mái trò chuyện với bạn bè hay những người thân quen, nhưng các em lại rất ngại tiếp xúc với người lạ hoặc trước đám đông. Thông thường các em rất khi chủ động trong việc phát biểu ý kiến của bản thân. 3
  4. Đây là nhóm học sinh mà chúng ta cần khích lệ, quan tâm, động viên kịp thời để giúp các em giải tỏa tâm lí ngại ngùng, e dè, nhút nhát khi giao tiếp. Nhóm 3: Học sinh còn nhút nhát, ngại giao tiếp, diễn đạt lời nói chưa rõ ý. Ở nhóm này, một biểu hiện rõ nét nhất là trong giờ học, các em rất ít tham gia phát biểu ý kiến. Và nếu phải phát biểu, các em thường nói rất nhỏ, nội dung lời nói thường lan man, không rõ ý và thường không nhìn thẳng vào mắt người đang nói chuyện với mình. Đây là nhóm học sinh cần nhiều sự quan tâm về việc tăng cường rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho các em. Bởi lẽ, các em vừa gặp khó khăn trong diễn đạt bằng ngôn ngữ vừa có tâm lí e ngại, sợ giao tiếp, nói chưa thành câu. Sau khi phân tích đặc điểm cũng như khả năng giao tiếp của từng học sinh trong lớp, tôi tiến hành xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân bố đều khắp 3 đối tượng học sinh nêu trên trong các tổ, các nhóm. Từ đó, tôi lập kế hoạch chủ nhiệm. hình thành ban cán sự lớp, biên chế tổ học tập, nhóm học tập, đôi bạn học tập, theo tình hình chất lượng lớp, tạo điều kiện cho các em được học tập, trao đổi, giúp đỡ lẫn nhau. 3.1.2. Giữ mối quan hệ chặt chẽ với cha mẹ học sinh. Thực tế cho thấy nhiều học sinh ở trường rất ngoan nhưng khi về nhà thì lại ngược lại. Chính vì vậy ngay từ đầu năm học, tôi đã xây dựng kế hoạch cho buổi họp PHHS thật cụ thể, chi tiết. Tại buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã triển khai thời khoá biểu, thời gian ca học, nội quy của lớp, quy định về sách vở, đồ dùng học tập, đồng phục và một số phong trào lớn của Nhà trường như: vở sạch chữ đẹp, hát múa sân trường Qua đó, đề ra biện pháp để phụ huynh cùng GVCN rèn nề nếp học sinh như sau: Hằng ngày kiểm tra sách vở của con em mình. Nhắc nhở con em học bài cũ và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp. Chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho con em theo thời khoá biểu hằng ngày. Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi. Sinh hoạt điều độ, đúng thời khoá biểu, giờ nào việc nấy tránh tình trạng vừa học vừa chơi. Thường xuyên trao đổi với GVCN qua trò chuyện trực tiếp, điện thoại hoặc qua sổ cá nhân, phiếu liên lạc để kịp thời nhắc nhở, khuyên 4
  5. bảo, đôn đốc học sinh nề nếp học tập ở lớp cũng như ở nhà, đặc biệt là việc rèn các kĩ năng sống trong đó có kĩ năng giao tiếp cho các em. HÌNH ẢNH XÂY DỰNG THỜI KHOÁ BIỂU VÀ THỜI GIAN BIỂU Ở NHÀ CỦA HỌC SINH Ngoài ra, việc chuẩn bị bài học trước khi lên lớp sẽ giúp các em tự tin hơn khi phát biểu. Vì vậy, giáo viên cũng phải luôn đề cao việc học tập và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, cùng với cha mẹ học sinh thường xuyên kiểm tra bài làm và cũng như sự chuẩn bị bài ở nhà của các em. Hơn nữa, cha mẹ học sinh là người tiếp xúc nhiều nhất với các em khi ở nhà, người trực tiếp dạy dỗ chỉ bảo các em từng lời ăn tiếng nói khi tiếp xúc với mọi người xung quanh, cha mẹ học sinh cần nhắc nhở các em nói năng lễ phép và mạnh dạn hơn. Thực hiện giải pháp này tôi đã phân loại được đối tượng học sinh của lớp, từ đó đưa ra kế hoạch và biện pháp kèm cặp cụ thể. Đến thời điểm này, các em đã tích cực học tập, các em có hoàn cảnh khó khăn đã có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập để đi học. Học sinh nhút nhát đã mạnh dạn, tự tin, hoà nhập cùng các bạn trong sinh hoạt. Trong quá trình học tập đua thầy, đua bạn, cùng với sự giúp đỡ, động viên, cổ vũ của các bạn trong nhóm sẽ giúp các em mạnh dạn, năng động hơn rất nhiều trong quá trình rèn luyện kỹ năng nói, tự tin hơn trước lời phát biểu của mình. Cha mẹ học sinh đã kịp thời nắm bắt được tình hình học tập của con em mình ở trường, có sự chuẩn bị chu đáo cho con em mình khi đi học. So với đầu năm học, học sinh mạnh dạn, tự tin hơn khi đến lớp. Tạo được mối quan hệ tốt 5
  6. giữa nhà trường và gia đình học sinh, phụ huynh có niềm tin vào kế hoạch giáo dục của nhà trường. 3.2. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh. Đổi mới phương pháp dạy học là dạy và học theo hướng tích cực chủ động, sáng tạo trong đó học sinh phải tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức mới theo sự tổ chức và hướng dẫn hợp lý của giáo viên. Trong các tiết học, tôi đã vận dụng các phương pháp, hình thức dạy học phù hợp tạo điều kiện cho học sinh rèn luyện kĩ năng giao tiếp của mình. *Phương pháp thảo luận nhóm: Tổ chức nhóm là nhằm tạo cơ hội cho mọi đối tượng được nói, được trình bày miệng trước tổ, được mạnh dạn trình bày và biết cách trình bày một vấn đề trược tập thể. Từ đó, giúp các em rèn kỹ năng giao tiếp, biểu hiện thái độ cử chỉ khi trình bày, mạnh dạn, tự tin hơn khi nói trước đông người. Vì vậy, đối với các môn học mục tiêu là rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh tôi thường vận dụng hình thức này như đối với phân môn Tập làm văn khi dạy các bài như: Chào hỏi. Tự giới thiệu; Cảm ơn, xin lỗi; Kể về người thân; Tôi thường cho học sinh tự suy nghĩ cá nhân sau khi xác định yêu cầu của bài tập, thảo luận nhóm đôi, thống nhất kết quả để thực hiện bài tập, sau đó các nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình. - Trong khi học sinh thảo luận nhóm, giáo viên cần quan sát, theo dõi và hướng dẫn, hỗ trợ khi các em gặp khó khăn trong quá trình thảo luận bằng cách đặt câu hỏi, hướng dẫn trả lời, cung cấp thêm thông tin cho các em. - Khi các nhóm trình bày, giáo viên yêu cầu nhóm khác phải lắng nghe nhóm bạn trình bày, nhận xét, bổ sung và so sánh cách làm, kết quả với nhóm mình. Đồng thời, giáo viên cần động viên, khuyến khích các nhóm và cá nhân đưa ra các câu hỏi có liên quan đến công việc của mỗi nhóm để học sinh trả lời. Tôi luôn sử dụng phương pháp này vào giảng dạy nhằm làm cho tất cả học sinh được hoạt động, tạo không khí lớp học sôi động, hấp dẫn, các em tiếp thu bài cũng dễ dàng hơn, đặc biệt tạo điều kiện để các em bổ sung vốn Tiếng Việt một cách hiệu quả. 6
  7. * Trò chơi học tập: Trò chơi học tập là hình thức học tập có hiệu quả đối với học sinh, đặc biệt là những em ngại nói, tức là ngại giao tiếp, trò chơi học tập sẽ làm cho các em hứng thú hơn trong học tập. Thông qua trò chơi, học sinh được luyện tập, làm việc cá nhân, làm việc trong đơn vị nhóm, đơn vị lớp theo sự phân công và tinh thần hợp tác. Trò chơi tạo cơ hội cho học sinh tự hoạt động, tự củng cố kiến thức, tự hoàn thiện kỹ năng giao tiếp của chính mình. Các trò chơi học tập có thể tổ chức cho học sinh trong giờ tự học, giờ ra chơi hoặc giờ sinh hoạt lớp hay trong phần củng cố của mỗi giờ học. Qua các trò chơi này, học sinh được tăng cường rèn luyện các kiến thức vừa được học, từ đó sẽ nhớ bài và vận dụng vào việc giao tiếp trong đời sống hằng ngày. Ví dụ: Trò chơi phỏng vấn (môn TN&XH, Bài 11: Môi trường sống của thực vật và động vật) Để củng cố cho học sinh về Môi trường sống của các thực vật vật và động vật. Biết nêu tên và nơi sống của một số thực vật, động vật sống trên cạn và dưới nước. Cách chơi: Một học sinh là phóng viên đến thăm lớp và hỏi các bạn một số câu hỏi liên quan đến bài học, như: + Bạn hãy cho mình biết một số loại thực vật sống trên cạn mà bạn biết? + Bạn hãy cho mình biết một số loại thực vật sống dưới nước mà bạn biết? + Những loài cây nào có thể làm thuốc chữa bệnh? + Bạn hãy nêu một số cây lấy gỗ? + Bạn hãy cho mình biết một số loại động vật sống trên cạn mà bạn biết? + Bạn hãy cho mình biết một số loại động vật sống dưới nước mà bạn biết? Qua trò chơi này cùng với những kiến thức vừa được học, các em sẽ thấy hứng thú và chủ động tham gia phát biểu ý kiến trước lớp. * Phương pháp thuyết trình - kể chuyện - đóng vai Đây là hình thức học tập được áp dụng nhiều ở phân môn Kể chuyện qua bài tập “Phân vai dựng lại câu chuyện”. Để học sinh có kỹ năng giao tiếp tốt, giáo viên 7
  8. cần chú ý cho học sinh có giọng kể thích hợp kết hợp cùng cử chỉ, điệu bộ trong khi đóng vai. Đặc biệt nắm vững nội dung câu chuyện định kể. Ví dụ: Tiết kể chuyện, bài 23: Bóp nát quả cam Giáo viên có thể cho học sinh tham gia dựng lại câu chuyện như sau: - Các nhân vật: Người dẫn chuyện, Trần Quốc Toản, nhà vua. - Phần 1: Giới thiệu cậu bé Trần Quốc Toàn đến gặp nhà vua để xin đánh giặc - Phần 2: Trần Quốc Toản được nhà vua tặng cho cam quý - Phần 3 : Trần Quốc Toản ấm ức vì bị nhà vua xem là trẻ con. - Chọn vai: chọn học sinh phù hợp với từng nhân vật. - Học sinh nhận vai, học thuộc lời thoại. - Giáo viên hướng dẫn cách diễn xuất cho từng nhân vật (qua ánh mắt, cử chỉ, động tác, lời nói...). - Học sinh trình diễn. - Cả lớp nhận xét, bình chọn học sinh diễn xuất giỏi để tuyên dương khen thưởng. Sau khi thực hiện giải pháp này, học sinh mạnh dạn trao đổi ý kiến với các bạn trong thảo luận nhóm. Các em mạnh dạn trình bày kết quả học tập của nhóm to, rõ ràng, lưu loát, tự tin; mạnh dạn đặt câu hỏi giao lưu với bạn dựa trên chuẩn kiến thức và kỹ năng. Các em nhút nhát tự tin hơn khi trình bày ý kiến. Tiết học trở nên sôi nổi, học sinh hứng thú hơn trong học tập. 3.3. Hướng dẫn kỹ năng giao tiếp giữa cô giáo và học sinh, giữa học sinh với học sinh. Sau hai tuần giảng dạy tôi đã theo dõi thấy một số em giao tiếp với bạn bè còn nhút nhát, rụt rè, nói cộc lốc, không đủ ý, đủ câu. Với thầy cô, người lớn thì lời nói chưa lễ phép, chưa tự tin. Khi tham gia vào các hoạt động, các em chưa mạnh dạn trình bày ý kiến của mình trước đám đông, bạn bè. Chính những điều đó làm ảnh hưởng không ít đến việc học tập của các em cũng như của lớp. Vậy để các em có nhu cầu muốn giao tiếp với thầy cô, bè bạn thì điều đầu tiên, tôi luôn cố gắng tạo không khí lớp học thân thiện, gần gũi. Chỉ khi các em xem lớp học là chính 8
  9. ngôi nhà của mình, xem thầy cô, bè bạn là những người thân của mình thì các em mới dễ dàng nói lên suy nghĩ của bản thân hơn. Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn gần gũi, động viên các em, đặc biệt quan tâm hơn đến những em ít nói, thụ động, những câu hỏi dễ thường dành cho những em đó trả lời để các em cùng tham gia nói, tạo sự tự tin trong các em. Đối với những em học tốt, tôi khuyến khích gợi mở bằng những câu hỏi nâng cao hơn, khó hơn một chút để các em mạnh dạn trình bày ý kiến của mình, kích thích sự hứng thú ham học của các em. Ngoài ra, trong quá trình giao tiếp hằng ngày tôi tiến hành sửa câu, sửa cách nói cho các em trong mọi lúc, mọi nơi. * Ví dụ: - Khi học sinh đến lớp nhìn thấy thầy cô giáo, có em chào: “Chào cô ạ!” , lúc này tôi liền sửa cho em nói đủ câu: “Em chào cô ạ !” và giải thích cho em đó mới là câu chào đầy đủ thể hiện sự lễ phép của học trò đối với thầy cô giáo. Từ đó các em hiểu được thế nào là câu đã đủ ý và một câu chào trọn vẹn để vận dụng vào cuộc sống hàng ngày. - Trong giờ học, khi đứng lên trả lời câu hỏi, có nhiều em còn nói trống không, đối với những trường hợp này, tôi hướng dẫn các em trước khi trả lời cần phải nói “thưa cô, thưa thầy”. - Hay khi giao tiếp với bạn bè, một số em có cách xưng hô không phù hợp như dùng danh xưng “mày - tao”, với những em này, tôi hướng dẫn các em dùng cách xưng hô phù hợp hơn, như xưng tên hay “ cậu - tớ”, “ bạn - mình” để tình bạn thêm thân thiện, gắn kết hơn. Đối với những em còn e dè, nhút nhát tôi thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn cho nhóm trưởng cho trình bày phát biểu ý kiến trong nhóm nhiều và tôi cũng thường xuyên cho những học sinh đó phát biểu trước lớp nhiều hơn. Động viên khen thưởng kịp thời để các em có tinh thần tự giác, tích cực trong giao tiếp. Sau khi áp dụng giải pháp trên các em mạnh dạn, tự tin, tích cực hơn khi tham gia vào các hoạt động sinh hoạt ngoại khóa, sinh hoạt lớp, sinh hoạt đầu giờ. Các em không còn e ngại, rụt rè trước đám đông khi trình bày ý kiến của mình. Các em đã biết nói đầy đủ câu, ứng xử phù hợp với từng tình huống cụ thể đặc biệt là 9
  10. không có hiện tượng nói trống không; xưng hô đúng mực tự tin trình bày các ý kiến của mình với thầy cô. Biết thưa gửi, lễ phép trong từng lời nói của mình, các hoạt động diễn ra một cách có hiệu quả hơn. 4. Kết quả đạt được Bằng việc nghiên cứu tài liệu cộng với kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của các bạn đồng nghiệp và sự ủng hộ tích cực của các bậc phụ huynh, tôi đã đạt được một số kết quả trong việc dạy một số kĩ năng giao tiếp cơ bản cho các em học sinh lớp 2B, trường Tiểu học Trường Thành, thành phố Tuyên Quang, năm học 2022 - 2023, thể hiện ở các nội dung sau: Qua thời gian sử dụng các giải pháp rèn luyện cho các em như đã nêu ở trên, lớp tôi đã đạt được những kết quả đáng kể như sau: Các em có sự tiến bộ trong giao tiếp, từ chỗ ít hứng thú trong học tập thì bây giờ các em say sưa, hứng thú học bài, các em tích cực giơ tay phát biểu xây dựng bài hơn. Các em ứng xử thân thiện, lịch sự, hòa nhã và biết nhường nhịn, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và cuộc sống. Đa số các em có khả năng giao tiếp với mọi người xung quanh rất tốt, các em nhận thức được cần lễ phép với mọi người xung quanh, phải xưng hô đúng cách, biết nói lời cảm ơn, xin lỗi phù hợp. Khả năng giao tiếp của các em đạt kết quả cụ thể như sau: TSHS Trước khi thực Sau khi thực được Nhóm hiện biện pháp hiện biện pháp khảo sát Nhóm 1: Giao tiếp khá tốt, tự tin, có lời nói lưu loát, diễn đạt trôi chảy, biết thể 6 17,6% 15 44,1% hiện lời nói biểu cảm trong giao tiếp. 34 Nhóm 2: Diễn đạt lời nói tương đối lưu loát, trôi chảy nhưng thiếu tự tin trong 15 44,1% 19 55,9 giao tiếp. Nhóm 3: Nhút nhát, ngại giao tiếp, diễn 13 38,3% 0 đạt lời nói chưa rõ ý 10